Sản xuất hàng may mặc tại Xí nghiệp Sơ mi, Veston của Tổng Công ty May 10 tại Sài Đồng, Quận Long Biên, Hà Nội. (Ảnh tư liệu: Anh Tuấn/TTXVN).
Kết quả này dù thấp hơn mục tiêu 48 tỷ USD nhưng vẫn tăng 5,6% so với năm trước, giữ vững vị thế “top 3” thế giới. Đây là cột mốc quan trọng giúp ngành hoàn thành mục tiêu trong những năm tới trước áp lực tái cấu trúc sâu, đáp ứng chuẩn xanh của các thị trường xuất khẩu.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, kim ngạch xuất khẩu của ngành bị hụt 2 tỷ USD là điều khó tránh khi ngành dệt may đã trải qua biến động về thị trường và biến động chính sách quốc tế trong năm 2025. Cụ thể, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang khiến nhiều mặt hàng dệt may bị áp thuế, cùng với bối cảnh địa chính trị phức tạp và sức mua tại Mỹ và EU giảm.
Người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, buộc doanh nghiệp chấp nhận đơn hàng nhỏ, sản xuất gấp và thời gian giao hàng ngắn, làm giảm biên lợi nhuận đã tác động trực tiếp lên nhóm hàng chủ lực, các thị trường truyền thống chịu áp lực lớn. Bối cảnh này buộc doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới, nhận đơn hàng rải rác, liên tục điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đáp ứng chuẩn xanh và truy xuất nguồn gốc để giữ uy tín với khách hàng quốc tế... "Hiệp định EVFTA và các FTA khác chỉ trở thành cơ hội nếu doanh nghiệp đủ năng lực đáp ứng chuẩn mực mới và nâng cao nội địa hóa nguyên liệu", ông Vũ Đức Giang nhấn mạnh.
Thêm vào đó, thiên tai miền Trung và Bắc Bộ những tháng cuối năm khiến nhiều nhà máy phải tạm dừng sản xuất. Nhiều xưởng may tại Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thái Bình bị ngập, máy móc hư hỏng, hàng hóa bị trì hoãn. Chi phí logistics nội địa tăng cao khi đường sá chia cắt, vận chuyển container đổi hướng hoặc chờ thông tuyến, trong khi khách hàng quốc tế đặt đơn nhỏ, rải rác để giảm rủi ro...
Những yếu tố này cộng hưởng với nhu cầu tiêu dùng toàn cầu chậm lại, khiến kết quả xuất khẩu bị nén xuống và áp lực lên doanh nghiệp ngày càng lớn. Đáng chú ý, trong bối cảnh địa chính trị phân mảnh và hàng loạt rào cản thuế quan mới, từ CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới Carbon) đến quy tắc xuất xứ chặt hơn, chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng dễ tổn thương. Do đó, các thương hiệu buộc phải đa điểm hóa sản xuất để giảm rủi ro.
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu cũng phân tích, dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ ba cả nước nhưng đang đối diện nhiều thách thức trước bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu khắt khe từ các thị trường nhập khẩu chính.
Cùng với đó, khách hàng có xu hướng đặt hàng ngắn hạn, đơn hàng nhỏ, yêu cầu giao hàng nhanh hay sức ép cạnh tranh cao khiến giá gia công giảm mạnh, kéo theo biên lợi nhuận giảm là những thách thức doanh nghiệp tiếp tục phải đối diện.
Do đó, doanh nghiệp phải chủ động trong việc đáp ứng các đơn hàng nhỏ, yêu cầu kỹ thuật cao, thời gian ngắn, giao hàng nhanh cũng như chủ động được nguồn cung nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước. Hiện tại, dệt may Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Đơn cử nguyên liệu cho ngành sợi, phải nhập khẩu 100% bông, 90 - 95% xơ, cùng các loại hóa chất, thuốc nhuộm trong nước chưa sản xuất được. Điều này dẫn đến rủi ro lớn cho ngành nếu Mỹ áp dụng quy định thuế quan đối với sản phẩm có tỷ lệ xuất xứ cao từ nước thứ ba.
Tiếp đến, ngành dệt may Việt Nam chủ yếu tham gia khâu sản xuất, chưa phát triển mạnh ở các công đoạn tạo giá trị gia tăng cao như thiết kế, xây dựng thương hiệu hay phân phối. Mặt khác, Việt Nam hiện không còn lợi thế về giá nhân công so với nhiều quốc gia xuất khẩu khác. Các đơn hàng cơ bản số lượng lớn, có giá gia công thấp đang chuyển dịch sang các quốc gia có giá nhân công rẻ hơn…
Đến năm 2030, với định hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 64,5 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng bình quân 6,5 - 7%/năm, phát triển thị trường nội địa đạt quy mô 8 - 9 tỷ USD; trong đó, trọng tâm chiến lược là “xanh hóa - số hóa”, tăng tỷ lệ nội địa hóa lên hơn 60%, xây dựng thương hiệu thời trang lớn mạnh…
Muốn đạt được mục tiêu này, Chủ tịch Vitas Vũ Đức Giang cho rằng, doanh nghiệp phải đẩy mạnh chiến lược đa dạng hóa thị trường, mặt hàng, khách hàng cũng như thúc đẩy khả năng kêu gọi đầu tư vào phần cung thiếu hụt, xây dựng chiến lược phát triển nguồn lực đi đôi với khoa học-công nghệ, đặc biệt phải xây dựng khát vọng đưa thương hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới.
“Việt Nam đã nghiên cứu và sản xuất một số mặt hàng khác biệt, có giá trị lớn, đáp ứng nhu cầu các ngành công nghiệp, y tế, hàng không,… Hiện một số các nhà máy đang hoàn thiện các khâu cuối cùng để đưa vào vận hành năm 2026. Đây là bước đột phá, nâng cao giá trị và thúc đẩy ngành phát triển trong thời gian tới”, ông Vũ Đức Giang nhấn mạnh.
Để vượt qua thách thức, doanh nghiệp dệt may cần hai trụ cột đồng bộ: nâng cao năng lực sản xuất trong nước với nội địa hóa nguyên liệu, xanh hóa và nâng cấp thiết bị; đồng thời mở rộng đầu tư ra nước ngoài, chọn thị trường chiến lược với chi phí hợp lý, ưu đãi thuế quan, logistics thông suốt và quản trị xuyên biên giới.
Giai đoạn 2026-2030, ngành sẽ đi trên hai "đường ray" song song: nâng chuẩn cạnh tranh trong nước và mở rộng hiện diện quốc tế. Hai hướng này bổ sung lẫn nhau, giảm rủi ro và tăng khả năng thích ứng với cú sốc toàn cầu. Ngành không còn dựa vào lợi thế chi phí thấp mà tăng trưởng bằng chất lượng, bền vững và quản trị rủi ro. Doanh nghiệp linh hoạt, nâng cấp công nghệ, hoàn thiện chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế sẽ trở thành "người thắng cuộc".
Với hướng đi bền vững và kinh tế tuần hoàn, ngành đang chuyển mạnh sang mô hình FOB (chủ động nguyên liệu, hoàn thiện sản phẩm), ODM (sản xuất trọn gói), chủ động từ thiết kế, nguyên liệu, vận tải đến quản lý kho tại nước nhập khẩu, hướng tới làm chủ sản xuất thay vì chỉ gia công.









