Cần hiểu chính xác thế nào là "ngôn ngữ thứ hai" trong trường học
Trước hết, cần làm rõ khái niệm căn bản "ngôn ngữ thứ hai" (second language). Trong ngôn ngữ học, khái niệm này được hiểu là ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ (mother tongue), nhưng được sử dụng rộng rãi trong xã hội nơi người học đang sống, không chỉ trong trường học mà cả trong công việc và giao tiếp hằng ngày. Ngôn ngữ đó phải được sử dụng để giao tiếp thực tế chứ không chỉ học trong lớp học. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, Singapore, Philippines, tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai.
Ở VN, trong tương lai, tiếng Anh sẽ vẫn chỉ là ngoại ngữ (foreign language), dù là một ngoại ngữ quan trọng và đến một lúc nào đó, có thể nhiều người VN sử dụng một cách thành thạo.

Giáo viên là nhân tố quan trọng để thực hiện đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học
ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Khái niệm "ngôn ngữ thứ hai" trong đề án của Chính phủ được dùng theo cách khác: có thêm định ngữ "trong trường học", tức thu hẹp phạm vi của khái niệm. Có thể coi đây là cách dùng có tính ẩn dụ, thể hiện định hướng về chính sách của nhà nước: Trong trường học, tiếng Anh không chỉ là đối tượng của một môn học mà còn là phương tiện để dạy học và giao tiếp. Như vậy, cách nói "ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường" không chính xác về phương diện học thuật (có thể gây hiểu lầm khi truyền thông ra thế giới) nhưng có thể chấp nhận được để diễn giải một chính sách: nâng cấp tiếng Anh lên vị trí đặc biệt, quan trọng hơn so với một ngoại ngữ thông thường. Vị trí đặc biệt này chỉ thể hiện ở chỗ tiếng Anh không chỉ được dạy học như một ngoại ngữ mà còn được dùng để dạy học một số môn học khác.
Còn "hình thành hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong trường học" thì chỉ dừng lại ở việc sử dụng tiếng Anh trong các sinh hoạt câu lạc bộ, hoạt động nhóm của học sinh (HS). Nếu dùng tiếng Anh trong giờ chào cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt chuyên môn của giáo viên (GV), trong giao tiếp giữa ban giám hiệu, nhân viên y tế, nhân viên bảo vệ với HS… thì có vẻ trái với tự nhiên.
Chủ trương dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 từ năm 2030 nằm trong chiến lược đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học như đã nói ở trên. Đây là một bước nâng cao hơn so với quy định trong Chương trình GDPT 2018 khi quy định ở lớp 1 và lớp 2, HS có thể học tiếng Anh như một môn tự chọn, thời gian học không vượt quá 70 tiết/năm, tức 2 tiết/tuần. Trong những năm qua, HS nhiều trường, nhất là các trường tư thục và trường công lập ở những đô thị lớn đã chọn học tiếng Anh từ lớp 1. Vì vậy, việc đưa môn học này thành môn bắt buộc có thể nhìn nhận theo hướng tích cực là tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả HS, ngay HS vùng khó khăn cũng được tiếp cận tiếng Anh từ sớm, không bị thua thiệt so với các bạn ở TP.

Một buổi học tiếng Anh của học sinh tại TP.HCM
ảnh: Đào Ngọc Thạch
Có cần sửa chương trình, sách giáo khoa tiếng Anh ?
Tuy vậy, chủ trương này đặt ra nhiều thách thức. Thứ nhất, đội ngũ GV sẽ thiếu trầm trọng nên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là vô cùng lớn.
Thứ hai, nếu không có phương pháp dạy học phù hợp thì sẽ tạo nên gánh nặng học tập lớn cho HS. Từ lớp 1, các em phải dành nhiều thời gian để làm quen với chữ viết tiếng Việt, phải thực hành nhiều để hình thành và phát triển kỹ năng, nhất là đọc và viết. Đối với HS thuộc các nhóm dân tộc thiểu số, ngoài tiếng Việt, các em có thể còn học thêm một ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Bây giờ thêm tiếng Anh, các em phải học cùng một lúc 3 ngôn ngữ.
Thứ ba, sách giáo khoa (SGK) tiếng Anh hiện nay biên soạn theo chuẩn đầu ra của Chương trình GDPT 2018, thời gian học ở tiểu học chỉ là 3 năm. Nếu dạy học bắt buộc từ lớp 1 thì chuẩn đầu ra cho lớp 5, theo đó là lớp 9 và lớp 12, có nâng lên không? Nếu nâng lên thì chương trình và toàn bộ SGK tiếng Anh có phải biên soạn lại không?
Nói về phương pháp, nếu GV không có kỹ năng tiếng Anh tốt và cũng không biết tận dụng sự hỗ trợ của máy móc, công nghệ thì HS có thể phát âm sai ngay từ đầu, sau này rất khó sửa. Học sớm khi đó thành ra có hại nhiều hơn có lợi.
Chương trình và SGK có thể vẫn giữ nguyên nếu dạy học tiếng Anh ở lớp 1 và lớp 2 theo cách như mấy năm qua, chỉ thay đổi từ tự chọn sang bắt buộc. Trong 2 năm đầu tiểu học, HS chủ yếu làm quen, thực hành giao tiếp tiếng Anh qua các hoạt động học tập do GV tổ chức với sự hỗ trợ hiệu quả của máy móc, công nghệ. Thời gian học cũng chỉ nên giới hạn trong khoảng 70 tiết/năm như lâu nay.
Nếu coi đề án của Chính phủ là chiến lược dài hơi thì việc thiếu GV trước mắt là thực tế mà chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên, thực tế đó không thể kéo dài. Lộ trình 5 năm chuẩn bị không phải là lâu, chỉ đủ để đào tạo một vài khóa ĐH sư phạm tiếng Anh.
GV cho môn tiếng Anh cũng tương tự GV cho môn tin học trong Chương trình 2018. Việc đưa tin học thành môn bắt buộc từ lớp 3 là một quyết định khó khăn sau nhiều tranh luận. Đưa tin học thành môn bắt buộc từ lớp 3 là chúng ta đã đi trước nhiều nước phát triển, nhưng cũng đứng trước thực tế nhiều trường công lập thiếu GV, cơ sở vật chất, thiết bị. Kết quả dạy học môn này chưa đạt được như mong muốn. Việc chuẩn bị nguồn lực GV, cơ sở vật chất, thiết bị cho môn tiếng Anh cũng có thể học hỏi từ kinh nghiệm đó.
Việc dạy học tiếng Anh như "ngôn ngữ thứ hai trong trường học" cần được diễn giải trong bối cảnh triển khai đề án của VN với những mục tiêu cụ thể và có thể đạt được. Cần coi đây là chiến lược lâu dài, kết quả của những nghiên cứu khoa học kỹ lưỡng; cần có những bước đi phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, vừa triển khai vừa khảo sát, đánh giá để giáo dục đổi mới được đúng hướng và nguồn lực đầu tư được sử dụng thực sự hiệu quả.















