Những người "giữ hồn" trà rừng
Trong hơn 10 năm qua, anh Nguyễn Trung Kiên, sáng lập thương hiệu An An trà gần như dành trọn thời gian ngược lên các vùng núi cao Tây Bắc tìm trà cổ. Từ Suối Giàng (Yên Bái) đến Sìn Hồ, Tả Phìn, Mường Tè (Lai Châu), Điện Biên… nơi nào có những tán trà Shan tuyết trăm tuổi lọt thỏm giữa đại ngàn, nơi đó đều in dấu chân anh. Nhưng cũng vì thế anh nhìn thấy nguy cơ mai một rừng trà. Những cây trà Shan tuyết có tuổi đời vài trăm đến hơn nghìn năm từng bị chặt tán, bẻ cành, trèo thân để thu hái; Gia súc cọ tróc vỏ cây làm thân trà chết dần...

Anh Nguyễn Trung Kiên (Giám đốc Công ty Trà An An) có niềm đam mê và tâm huyết bảo tồn giống trà cổ Việt
ẢNH: LÊ NAM
Chưa biết ứng xử thế nào thì cơ duyên đưa anh Kiên gặp ông Nguyễn Thành Dương, là cựu cán bộ quân đội gắn bó công tác dân vận tại các bản vùng cao. Anh Dương từng trực tiếp làm thiện nguyện, nuôi bữa ăn cho trẻ em bản, hỗ trợ người nghèo chữa bệnh. Chính trong những chuyến "ăn rừng ngủ bản" ấy, anh thấu hiểu giá trị của những quần thể trà cổ mà bà con đang sở hữu nhưng chưa biết cách giữ gìn.
"Cho tiền mãi cũng hết. Muốn bà con sống bền vững thì phải giữ được cây trà. Đó là cần câu cơm lâu dài của cả cộng đồng", anh Dương chia sẻ. Hai người bắt đầu vận động bà con bảo tồn trà rừng theo quan điểm "sống được nhờ rừng thì mới giữ rừng". Ban đầu, hai anh trả giá thu mua cao hơn thị trường để người dân thấy giá trị thực của trà cổ, đồng thời hướng dẫn thu hái đúng kỹ thuật, dựng giàn giáo xung quanh tán cây thay vì trèo bám thân. Đặc biệt là không chặt phá, không đưa gia súc thả cọ thân trà. Những trưởng bản, già làng dần trở thành lực lượng nòng cốt, đứng ra lập hợp tác xã cùng cam kết bảo vệ vùng trà.

Một gốc trà phấn hồng cổ góp mặt tại Lễ hội trà quốc tế 2025
ẢNH: LÊ NAM
Ba năm đầu là giai đoạn "cứu cây". Hai anh không thu hái ồ ạt, chỉ để trà hồi phục bộ tán, rễ và thảm thực vật. Đến đầu năm 2025, lứa trà "đúng nghĩa" đầu tiên mới được thu hoạch, cho ra đời những mẻ trà Shan tuyết chất lượng cao, mang dấu ấn của An An Trà.
Mục tiêu của nhóm là bảo tồn khoảng 1.000 ha rừng trà cổ, song đến nay mới khôi phục được hơn 50 ha. "Điều chúng tôi sợ nhất không phải là bán ít, mà là đến lúc người Việt thật sự muốn uống trà Shan tuyết thì không còn cây để hái", anh Kiên nói.
Khi trà Việt tìm lại "căn cước"
Không chỉ những người làm nghề, giới học thuật và quản lý cũng đang tham gia mạnh mẽ vào quá trình "định danh lại trà Việt". Chia sẻ với phóng viên Báo Thanh Niên bên lề "Hội thảo nâng tầm giá trị cây chè Việt Nam", thuộc khuôn khổ Lễ hội trà Quốc tế (World Tea Fest 2025) lần đầu tiên được tổ chức tại Lâm Đồng, ông Phạm Công Tuấn Hạ - phụ trách chiến lược phát triển trà Đôi Dép, người được gọi là "trà nhân" kể : "Chúng tôi từng tới một bảo tàng trà uy tín tại Nhật Bản. Trong toàn bộ lịch sử trà thế giới được giới thiệu ở đó không hề có tên Việt Nam. Nhiều quốc gia vẫn cho rằng Việt Nam chỉ tiếp nhận trà từ Trung Hoa và chủ yếu là vùng sản xuất nguyên liệu thô".
Theo ông Hạ, đó là một thiệt thòi rất lớn, nhất là đặt trong bối cảnh Việt Nam sở hữu hệ thống trà Shan tuyết cổ thụ tự nhiên phong phú hàng đầu thế giới, đặc biệt ở vùng núi phía bắc.

Việt Nam lsở hữu hệ thống trà Shan tuyết cổ thụ tự nhiên phong phú hàng đầu thế giới, đặc biệt ở vùng núi phía bắc
ẢNH: LÊ NAM
Hội thảo tập trung vào hai hướng là chứng minh giá trị sức khỏe văn hóa của trà để chinh phục thị trường trong nước trước; và nghiên cứu lịch sử nguồn gốc cây trà, nhằm khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới.
Trong đó nổi bật là công trình nghiên cứu của nhà khoa học Nhật Bản - giáo sư Matsushita, người dành 72 năm đời mình nghiên cứu trà, điền dã hơn 20 quốc gia châu Á, trong đó có 6 lần khảo sát trực tiếp tại Việt Nam. Từ việc khảo cứu hệ thực vật họ Camellia, giáo sư Matsushita khẳng định: "Khu vực có đầy đủ các giống 'tiến hóa gốc' hình thành cây trà tổ tập trung mạnh nhất nằm ở vùng núi phía bắc Việt Nam, đặc biệt tại khu vực Lai Châu, Điện Biên".
Theo lý thuyết "3 vùng trà", thế giới được chia thành vùng nguyên sản, là nơi cây trà bản địa hình thành; vùng trà hoang dã và vùng trồng canh tác do con người phát triển. Trên cơ sở đó, nhiều khu trà vốn nổi tiếng tại Trung Quốc, Ấn Độ hay Lào được xác định chỉ thuộc vùng trà hoang dã, chưa đủ điều kiện khoa học để được xem là vùng nguyên sản. Trong khi đó, Việt Nam hội tụ đầy đủ yếu tố thực vật học để có cơ sở được nhìn nhận như một vùng nguyên sản, chính là cái nôi góp phần hình thành cây trà của thế giới.
"Điều không thể phủ nhận là người Việt cổ đã sống cùng cây trà từ rất sớm. Trà gắn liền với đời sống thường nhật, tín ngưỡng và các sinh hoạt dân gian của người Việt, phản ánh một chiều sâu văn hóa mà lâu nay thế giới chưa nhận diện đúng và đầy đủ", ông Phạm Công Tuấn Hạ nhấn mạnh.

Việt Nam hiện là một trong 5 quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới
ẢNH: CTV
Ở góc độ thị trường, ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết, Việt Nam hiện là một trong 5 quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới, với sản lượng trà búp tươi hằng năm khoảng 1,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 230 - 250 triệu USD mỗi năm, sản phẩm có mặt tại hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, nghịch lý lớn nhất là "chúng ta xuất khẩu rất nhiều nhưng giá trị còn thấp, chủ yếu bán nguyên liệu thô, chưa xây dựng được những thương hiệu cấp cao đủ sức cạnh tranh với Nhật Bản, Trung Quốc hay Sri Lanka". Ngay trên thị trường trong nước, lượng trà Shan tuyết được tiêu thụ chỉ chiếm dưới 30% tổng sản lượng, phần lớn còn lại tiếp tục phục vụ xuất khẩu giá thấp hoặc dùng cho pha trộn công nghiệp.
Theo ông Long, muốn "nâng tầm trà Việt" cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp then chốt. Trước hết là bảo tồn vùng nguyên liệu, đặc biệt là những cánh rừng trà cổ thụ đang ngày càng thu hẹp; tiếp đến là chuẩn hóa chế biến và xây dựng thương hiệu, tạo giá trị gia tăng thay vì chỉ bán theo cân ký. Đồng thời phát huy chiều sâu văn hóa trà, gắn sản phẩm với trải nghiệm thưởng trà, du lịch và triết lý sống để tạo bản sắc riêng cho trà Việt trên thị trường quốc tế.
"Chúng tôi không mơ bán thật nhiều trà mà mơ giữ được cây trà cho con cháu. Khi còn rừng, còn giống, còn văn hóa, lúc đó trà Việt mới có thể ngẩng đầu bước ra thế giới", anh Kiên trăn trở.








