Theo dự thảo đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045” mà Bộ GD&ĐT đang xây dựng, đến năm 2045, tiếng Anh sẽ trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Mồ Dề (Lào Cai) trong một tiết học tiếng AnhẢnh: NGHIÊM HUÊ
Đề án đặt mục tiêu đến năm 2045, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục, được sử dụng rộng rãi trong dạy học, quản lí và các hoạt động giáo dục. Lộ trình triển khai chia thành 3 giai đoạn (2025-2030, 2030-2040 và 2040-2045) với bộ tiêu chí đánh giá cho từng cấp học.
Đề án được dự kiến triển khai trong toàn hệ thống giáo dục với gần 50.000 cơ sở, khoảng 30 triệu học sinh, sinh viên và 1 triệu cán bộ, giáo viên. Theo tính toán của Bộ GD&ĐT, cần bổ sung khoảng 12.000 giáo viên tiếng Anh mầm non, gần 10.000 giáo viên tiểu học, đồng thời bồi dưỡng ít nhất 200.000 giáo viên có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến năm 2030.
Chỉ một số ít địa phương có thể tự tin về đích
Thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018, tiếng Anh trở thành môn học bắt buộc từ năm lớp 3 đối với học sinh trên toàn quốc. Năm học 2020-2021 bắt đầu triển khai và nhiều trường tiểu học “trắng” giáo viên tiếng Anh. Huyện Mèo Vạc, Hà Giang (cũ) và huyện Mù Cang Chải, Yên Bái (cũ) chỉ có 1 hoặc 2 giáo viên tiếng Anh cho hàng chục trường tiểu học. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, hiện cả nước còn thiếu hơn 20.000 giáo viên các môn tiếng Anh, tin học, mĩ thuật, âm nhạc..., trong đó thiếu nhiều nhất là giáo viên tiếng Anh. Có thể nói, thiếu giáo viên tiếng Anh là thách thức của ngành giáo dục khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Cuối tháng 9, Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực tổ chức phiên họp xin ý kiến góp ý dự thảo đề án, ông Lâm Thế Hùng, Phó giám đốc Sở GD&ĐT Tuyên Quang, cho rằng, việc thực hiện đề án tại địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ khó khăn về giáo viên mà còn khó cả phía học sinh.
Nhiều học sinh vào lớp 1, khả năng nghe nói, giao tiếp tiếng Việt đã khó. Nếu triển khai tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai sẽ càng khó khăn hơn. Vì thế, cần có lộ trình riêng đối với những địa phương đặc thù.
Hiện chỉ một số ít địa phương có thể tự tin để triển khai và về đích đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai đúng kế hoạch. Lãnh đạo Sở GD&ĐT TPHCM thông tin, các phòng chuyên môn của Sở đang rà soát các nội dung xây dựng dự thảo tiêu chí đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường. Trong đó, sẽ quy định cụ thể số môn học bằng tiếng Anh, thời lượng học sử dụng tiếng Anh, một số chuẩn đánh giá. TPHCM có nhiều thuận lợi khi thực hiện đề án do địa phương đã triển khai chương trình tăng cường tiếng Anh từ năm học 1998-1999; chương trình tiếng Anh tích hợp (Đề án 5695, dạy và học các môn Toán, Khoa học và tiếng Anh tích hợp chương trình Anh và Việt Nam từ năm học 2014-2015…). Do đó, TPHCM sẽ từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học trước năm 2030.
Nhiều địa phương khác, đến nay thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 vẫn chưa đủ giáo viên tiếng Anh theo yêu cầu.
Cần lộ trình bài bản
Là đơn vị hỗ trợ miễn phí đội ngũ giáo viên huyện Mù Cang Chải dạy tiếng Anh từ năm 2021-2022, ông Nguyễn Tiến Trình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Giáo dục iSMART, đánh giá đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học của Chính phủ là bước ngoặt mang tính chiến lược trong giáo dục Việt Nam. Lần đầu tiên, chúng ta nhìn nhận tiếng Anh không chỉ là một môn học, mà còn là một năng lực công dân toàn cầu. Việc này đồng nghĩa học sinh Việt Nam sẽ được học tập, sinh hoạt và sống trong tiếng Anh, không chỉ học tiếng Anh như một ngoại ngữ. Theo ông Trình, để biến tầm nhìn này thành hiện thực, cần đồng thời hội đủ năm điều kiện cốt lõi. Đầu tiên, môi trường ngôn ngữ tự nhiên trong nhà trường. Khi học sinh được “tắm” trong tiếng Anh hằng ngày, ngôn ngữ sẽ trở thành phản xạ tự nhiên, không chỉ là kiến thức để thi.
Tiếp đến, cần đội ngũ giáo viên song ngữ chất lượng cao. Vì vậy, có chương trình đào tạo, bồi dưỡng quy mô quốc gia, kết hợp giữa các đơn vị liên quan. Thứ ba, chương trình và học liệu tích hợp hiện đại. Việc học bằng tiếng Anh cần được thiết kế bài bản, phù hợp văn hóa Việt Nam nhưng tiệm cận chuẩn quốc tế. Đây là lúc trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu học tập và nền tảng công nghệ giáo dục (EdTech) phát huy vai trò - giúp cá nhân hóa quá trình học, đo lường tiến bộ, và nuôi dưỡng hứng thú học tập. Điều kiện nữa là hạ tầng công nghệ và hệ sinh thái số đồng bộ. Cuối cùng, ông Trình cho rằng, nên có sự hợp tác công - tư và hội nhập quốc tế.

Việc học bằng tiếng Anh cần được thiết kế bài bản, phù hợp văn hóa Việt Nam nhưng tiệm cận chuẩn quốc tếẢnh: Chinhphu.vn
|
Đến năm 2045, tiếng Anh sẽ trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục Việt Nam, được sử dụng rộng rãi trong dạy học, quản lí và các hoạt động giáo dục. |
Theo ông Trình, thiếu giáo viên là thách thức lớn nhưng có thể giải quyết nếu có cách tiếp cận chiến lược, thực tế và phân tầng rõ ràng. Vấn đề hiện nay không chỉ là thiếu về số lượng, mà còn là khoảng trống về chất lượng và năng lực sư phạm tích hợp (khả năng dạy các môn học bằng tiếng Anh). Chúng ta không chỉ thiếu giáo viên tiếng Anh, mà đang thiếu giáo viên có thể dạy học bằng tiếng Anh.
Để giải quyết vấn đề này, ông Trình cho rằng, cần một chiến lược đồng bộ dựa trên ba trụ cột: đánh giá năng lực - đào tạo phân tầng - và hợp tác công tư và hợp tác quốc tế. Trong đó, đánh giá giáo viên, cần xác định rõ điểm xuất phát. Từ đó, giúp phân loại giáo viên thành các nhóm như chưa đạt chuẩn (tâp trung bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ); nhóm đạt chuẩn nhưng thiếu năng lực sư phạm tích cực (cần đào tạo phương pháp); nhóm giáo viên giỏi, đạt chuẩn cao (có thể đóng vai trò đồng giảng, huấn luyện và hỗ trợ đồng nghiệp). “Theo tôi, không một cơ quan đơn lẻ nào có thể giải quyết được bài toán thiếu quá nhiều giáo viên tiếng Anh. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng: nhà nước - trường sư phạm - các doanh nghiệp công nghệ giáo dục”, ông Trình nói. Ông cho rằng, hợp tác quốc tế là yếu tố then chốt. Việt Nam cần mở rộng liên kết với các tổ chức như Cambridge, Oxford, Hội đồng Anh (British Council)… để chuẩn hóa chứng chỉ, đào tạo giảng viên nguồn và kiểm định chất lượng giáo viên. Nếu mỗi địa phương xây dựng được một hệ sinh thái đào tạo giáo viên song ngữ, kết hợp giữa Nhà nước, đại học và doanh nghiệp, trong thời gian ngắn, chúng ta có thể khắc phục được tình trạng thiếu hụt hiện nay.
|
Cuối tháng 10, hơn 600 giáo viên các trường tiểu học của Hà Nội được tập huấn phương pháp đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, chú trọng xây dựng môi trường để học sinh giao tiếp bằng tiếng Anh thường xuyên. |
Trao đổi với phóng viên, lãnh đạo một trường tiểu học tại Hà Nội nhận định, vẫn còn một bộ phận giáo viên dạy theo phương pháp cũ, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu giảng dạy chậm cập nhật, còn lúng túng khi tổ chức dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh do thiếu giáo viên có chuyên môn song ngữ. Vị này khẳng định, cần củng cố tiếng Việt, ngôn ngữ mẹ đẻ, trước khi triển khai mạnh mẽ tiếng Anh để tránh gây rối loạn phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. Ngoài ra, chương trình học chưa thật sự phù hợp giữa các vùng; chất lượng đầu tư cho giáo dục ngoại ngữ chênh lệch lớn do mặt bằng dân trí, điều kiện kinh tế khác nhau.
Cơ sở vật chất cũng là thách thức lớn. Tại Hà Nội cũng có sự chênh lệch đáng kể về điều kiện học tập giữa trường khu vực nội thành và ngoại thành. Môi trường học tập và đánh giá chưa đồng bộ khiến việc đo lường tiến bộ của học sinh còn nhiều bất cập. Trong khi đó, các trường ở đô thị dễ dàng tiếp cận nguồn lực xã hội hóa, tạo lợi thế vượt trội…










