Vào đầu tháng 5/2008, ông Vu Kiến Thủy ở Thượng Hải, đã trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo tinh vi do nhân viên ngân hàng cấu kết với người ngoài thực hiện.
Theo hồ sơ, anh Trần – quản lý khách hàng của Chi nhánh ICBC đường An Sơn – đã cấu kết với một người họ Từ, bịa ra thông tin về sản phẩm tiết kiệm kỳ hạn một năm với lãi suất cao đến 16% nhằm dụ ông Vu gửi tiền. Để hưởng ưu đãi, ông Vu đồng ý điều kiện không tất toán trước hạn và không chuyển tiền trong vòng một năm.
Khi làm thủ tục mở tài khoản, quản lý Trần chỉ giao cho ông Vu thông tin tài khoản tiết kiệm còn bản thân thì lén mở dịch vụ ngân hàng trực tuyến và nhận thiết bị bảo mật liên kết với tài khoản của ông Vu.
Ngày hôm sau, để xác minh tài khoản, ông Vu gửi thử 200 NDT qua máy gửi tiền tự động và 500 NDT tại quầy của chi nhánh ICBC Dương Phố. Chiều cùng ngày, sau khi thấy số tiền đã vào đúng tài khoản, ông Vu gửi thêm 20,91 triệu NDT (hơn 77 tỷ đồng) vào tài khoản tiết kiệm. Ngay sau đó, anh Từ cũng chuyển thêm 4,09 triệu NDT (hơn 15 tỷ đồng) tiền lãi như cam kết vào tài khoản trên.
Tuy nhiên, ngay trong buổi chiều, anh Từ đã sử dụng thiết bị bảo mật mà quản lý Trần giao cho để kiểm soát tài khoản. Người này chia số tiền làm 2 phần và chuyển lần lượt sang tài khoản cá nhân để tiêu xài.

Ảnh minh họa: Internet
Đến năm 2009, hành vi gian lận của anh Từ và quản lý Trần mới bị phát giác. Đến năm 2011, cả hai bị tòa án địa phương tuyên án về tội lừa đảo. Dù vậy, ngân hàng ICBC chi nhánh An Sơn và Dương Phố khẳng định không liên quan đến vụ việc và từ chối hoàn trả tiền gốc và lãi cho ông Vu. Để đòi lại tiền, ông Vu phải khởi kiện 2 đơn vị này ra Tòa án Nhân dân quận Dương Phố.
Trong vụ việc này, tòa án tập trung xác định ông Vu có lỗi hay không. Nếu có lỗi, mức độ này có làm giảm trách nhiệm của ngân hàng hay không. Bên cạnh đó, việc thu hồi tiền trong án hình sự có ảnh hưởng đến quyền đòi dân sự của ông Vu không cũng là vấn đề được đem ra để tranh luận.
Thẩm phán Lý Linh Vân, Tòa dân sự số 5, quận Dương Phố, nhấn mạnh rằng giữa ông Vu và chi nhánh ICBC An Sơn tồn tại quan hệ hợp đồng tiền gửi hợp pháp. Ông Vu đã làm đầy đủ hồ sơ, ngân hàng đã cấp sổ giao dịch, nghĩa là hợp đồng tiền gửi đã hình thành.
Theo quy định, khi khách hàng gửi tiền, ngân hàng có trách nhiệm bảo đảm an toàn tài sản và trả đầy đủ gốc lẫn lãi. Nếu quy trình được thực hiện đúng, tội phạm bên ngoài không thể chiếm quyền kiểm soát thiết bị bảo mật của khách hàng, cũng như không thể chuyển tiền mà khách hàng không hay biết.
Về phía ông Vu, tòa án cho rằng nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình: trực tiếp đến ngân hàng mở tài khoản, tự gửi thử tiền để xác minh thông tin, đồng thời bảo quản sổ tiết kiệm cẩn thận. Tòa nhận định ông Vu không có lỗi dẫn đến thiệt hại.
Ngược lại, tòa án cho rằng chi nhánh ICBC An Sơn đã vi phạm quy trình nghiệp vụ khi để anh Trần tự ý mở dịch vụ ngân hàng trực tuyến và chiếm quyền nhận thiết bị bảo mật của khách hàng.
Dựa trên bản chất hợp đồng tiền gửi, sau khi tiền được gửi, quyền sở hữu thuộc về ngân hàng. Số tiền thu hồi trong vụ án hình sự thuộc về ngân hàng và không ảnh hưởng đến quyền yêu cầu hoàn trả của ông Vu. Tòa án đã tuyên buộc 2 chi nhánh ICBC phải hoàn trả 20,91 triệu NDT tiền gốc cùng tiền lãi cho ông Vu.
Riêng 4,09 triệu NDT do tội phạm gửi vào tài khoản nhằm tạo cảm giác lãi suất cao không được tính là tiền gửi hợp pháp. Do đó, ngân hàng không phải hoàn trả khoản tiền này.
Tòa án Trung Quốc đánh giá vụ án của ông Vu là trường hợp điển hình về tình trạng nhân viên ngân hàng cấu kết người ngoài để lừa khách gửi tiền và chiếm đoạt tài sản. Phán quyết của tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng mà còn thúc đẩy ngân hàng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ, tăng cường quản lý nội bộ, nâng cao tính minh bạch và kỷ luật trong hệ thống tài chính Trung Quốc.
(Theo Sina)






