Đào tạo Luật trăm hoa đua nở
Tọa đàm "Đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay" diễn ra sáng 10/12 tại TPHCM, do báo Pháp luật TPHCM tổ chức đã chỉ ra những điểm yếu và thách thức về ngành này.
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Tổng biên tập báo Pháp luật TPHCM, cho rằng hội nhập quốc tế khiến nhu cầu nhân lực pháp lý chất lượng cao tăng mạnh, trong khi chương trình đào tạo vẫn chậm đổi mới, thiếu hài hòa giữa lý thuyết và thực tiễn và chưa bảo đảm chất lượng tương xứng.
PGS Bùi Anh Thủy, Trưởng khoa Luật, Trường ĐH Văn Lang, đồng thời là thành viên Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam cho hay, trước năm 2020, cả nước có hơn 40 cơ sở giáo dục đại học tuyển sinh và đào tạo ngành luật từ bậc cử nhân, trong đó một số đơn vị đào tạo cả thạc sĩ và tiến sĩ.
Đến nay con số này đã tăng lên khoảng 90 cơ sở. Hiện có 4 trường đại học mang tên “trường Luật” gồm: Trường Đại học Luật Hà Nội (Bộ Tư pháp), Trường Đại học Luật – ĐHQG Hà Nội, Trường Đại học Luật – Đại học Huế và Trường Đại học Luật TPHCM (Bộ GD-ĐT).
Bên cạnh đó, nhiều trường đại học công lập và tư thục có Khoa luật đã hình thành và phát triển lâu năm, thực hiện tuyển sinh đa cấp bậc, cung cấp nguồn nhân lực cho thị trường lao động. Không ít cơ sở, dù là chuyên ngành luật hay trường đa ngành, đã tạo dựng được uy tín, thương hiệu, thu hút người học; chương trình đào tạo được kiểm định, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tỷ lệ cử nhân, thạc sĩ luật có việc làm sau tốt nghiệp từ 6 tháng đến một năm khá cao, thu nhập ổn định. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh nỗ lực của các cơ sở đào tạo và người học trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.
"Tuy vậy, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng không phải cơ sở đào tạo luật nào cũng đạt được kết quả như vậy. Vẫn còn những trường mở ngành vội vàng, chương trình thiếu thực tiễn, đội ngũ giảng viên mỏng, cơ sở vật chất chưa đáp ứng, quy trình đánh giá học tập sơ sài. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo, tạo ra phản ứng trái chiều và gây thất vọng trong xã hội, thậm chí ngay trong đội ngũ cán bộ, công chức, lãnh đạo, quản lý của bộ máy nhà nước", ông Thủy nói.

Theo PGS Bùi Anh Thủy, Việt Nam có hơn 104 triệu dân, gần 60 triệu người trong độ tuổi lao động, nhưng tỷ lệ người trưởng thành có trình độ đại học vẫn thuộc nhóm thấp nhất khu vực. Điều này cho thấy giáo dục đại học phải nỗ lực hơn để nâng cao chất lượng và mở rộng cơ hội học tập.
Với ngành luật, dù số trường đào tạo đông, nhu cầu nhân lực pháp lý vẫn rất lớn và chưa được đáp ứng. Ông nhấn mạnh nhu cầu nhân lực pháp lý còn rất lớn, trải rộng từ hệ thống tư pháp đến doanh nghiệp và khu vực công.
5 vấn đề trong đào tạo luật đang gặp phải
Theo ông Thủy, việc nâng cao chất lượng đào tạo luật là xu thế tất yếu và các trường hoàn toàn ủng hộ chủ trương này. Tuy nhiên, chất lượng không thể được cải thiện chỉ bằng một mệnh lệnh hành chính, mà phải dựa trên nhiều yếu tố nền tảng.
PGS Bùi Anh Thủy chỉ ra 5 vấn đề lớn của đào tạo luật: Chương trình nặng lý thuyết; chuẩn đầu ra thiếu thực tiễn; đội ngũ giảng viên thiếu kinh nghiệm nghề; rủi ro liêm chính từ công nghệ số; hạn chế ngoại ngữ khiến cử nhân khó hội nhập. Ngoài ra, khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu tuyển dụng vẫn còn lớn.
Ông Thủy cho rằng các cơ sở đào tạo luật cần tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật và xây dựng môi trường học tập hiện đại. Cùng với đó, đội ngũ giảng viên phải được phát triển theo hướng có trình độ cao và giàu kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp, pháp lý, giúp người học không chỉ nắm vững kiến thức mà còn có kỹ năng và trải nghiệm nghề nghiệp.
Ông cũng nhấn mạnh chương trình đào tạo phải được cập nhật thường xuyên để phù hợp với tốc độ thay đổi của xã hội, quá trình hội nhập và yêu cầu mới của nền kinh tế. Hệ thống học liệu, thư viện, trung tâm thực hành pháp luật, câu lạc bộ pháp lý và các phòng mô phỏng cần được đầu tư nhằm hỗ trợ người học tiếp cận thực tiễn.
Theo ông, hiện nay các trường đều đã xây dựng chuẩn đầu vào - đầu ra, tuy mức độ khác nhau nhưng đều hướng tới đáp ứng chuẩn chất lượng chung.

Ông Trần Cao Thành, Thư ký Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo Luật tại Việt Nam, đề xuất 8 giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo luật. Trong đó, ông nhấn mạnh việc rà soát thực thi chuẩn mở ngành và chuẩn đội ngũ, bảo đảm giảng viên đứng tên phải trực tiếp giảng dạy. Mô hình quản trị đào tạo cần được đổi mới theo nhu cầu thị trường lao động; đội ngũ giảng viên phải được chuẩn hóa, tăng tỉ lệ tiến sĩ đúng ngành và thu hút chuyên gia từ hệ thống tư pháp và doanh nghiệp.
Ông cũng đề nghị đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế và xây dựng quỹ hỗ trợ nghiên cứu pháp lý; chuẩn hóa, thống nhất chương trình và bổ sung các kỹ năng nghề luật cốt lõi. Cơ sở vật chất và học liệu pháp lý cần được nâng cấp, từ thư viện điện tử đến các phòng thực hành nghề. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định phải được siết chặt, vận hành hệ thống IQA chuyên nghiệp và công khai dữ liệu chất lượng. Cuối cùng, đào tạo luật cần gắn kết chặt chẽ hơn với thực tiễn thông qua mở rộng thực tập, mô phỏng phiên tòa và phát triển mô hình clinic pháp lý theo chuẩn quốc tế.
Luật sư Lê Quang Y, Phó Chủ nhiệm phụ trách Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai cũng nhận định đào tạo luật tại Việt Nam có tiềm năng nhưng chưa theo kịp tốc độ thay đổi của pháp luật và yêu cầu nghề nghiệp.
Ông đề xuất chuyển sang đào tạo dựa trên năng lực hành nghề; tăng cường dạy học tình huống, án lệ, mô phỏng; mở rộng giảng viên đến từ thực tiễn như luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên; Đoàn Luật sư tham gia thiết kế chuẩn đầu ra và đánh giá thực tập; bổ sung học phần hội nhập, trọng tài, tiếng Anh pháp lý và công nghệ pháp lý.









