Giáo dục

Những bậc thầy tiêu biểu của Quốc Tử Giám qua các triều đại

Văn Miếu - Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, biểu tượng của truyền thống hiếu học và nền văn hiến lâu đời.

Theo trang thông tin của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đứng đầu ngôi trường này là các tế tửu và tư nghiệp, những người vừa là thầy giáo mẫu mực, vừa là nhà quản lý giáo dục xuất sắc, đồng thời là các quan đại thần tài năng, có đức cao trọng vọng.

Các tế tửu và tư nghiệp nổi bật tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử giáo dục Việt Nam, đào tạo nhiều hiền tài phục vụ triều đình và đất nước.

Văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Ảnh: Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Ảnh: Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Chu Văn An (1292 - 1370)

Người thầy tiêu biểu Chu Văn An tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ấn. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam viết, thời trẻ, ông học giỏi, tính tình thẳng thắn, không màng công danh, ở nhà dạy học. Ở thời của ông, hệ thống trường học còn hạn chế.

Trên cả nước, Quốc Tử Giám tại kinh đô là trường quốc lập duy nhất. Ban đầu trường chỉ dành cho con vua, con quan, và những người thuộc tầng lớp quý tộc. Về sau, trường mở rộng cho những học trò có năng lực nổi bật ngoài tầng lớp này.

Nhận thấy nhiều người có năng lực nhưng không nằm trong diện được tuyển vào Quốc Tử Giám, Chu Văn An đã mở trường Huỳnh Cung tại quê nhà (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội ngày nay) để giảng dạy. Danh tiếng của ông cùng trường Huỳnh Cung nhanh chóng lan rộng, khiến vua Trần Minh Tông mời ông ra giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, trông coi việc học tập cho cả nước.

Trong những năm đầu, ông chủ yếu kèm cặp thái tử Trần Vượng - người sau này lên ngôi vua Trần Hiến Tông (1329). Sau khi học trò lên ngôi, ông mới chuyên tâm toàn bộ vào công việc tại Quốc Tử Giám, giảng dạy con vua, con quan và đào tạo nhiều nhân tài cho triều đình.

Chu Văn An để lại tác phẩm Tứ thư thuyết ước, trở thành cẩm nang học tập cho sĩ tử thời bấy giờ, và được hậu thế tôn vinh là người thầy mẫu mực muôn đời của Việt Nam.

Nguyễn Phi Khanh (1355 - 1428)

Nguyễn Phi Khanh, danh thần nhà Hồ, tên húy là Ứng Long, thân phụ của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Ông là người có thực tài, đỗ tiến sĩ dưới triều Trần, sau ra làm quan triều Hồ và được bổ nhiệm các chức vụ quan trọng như Đại lý tự khanh, Trung thư thị lang, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Trong vai trò này, ông tham gia giảng dạy và đào tạo nhân tài cho triều đình, đồng thời truyền cho con trai Nguyễn Trãi tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước và học vấn uyên thâm. Khi nhà Hồ thất thủ, ông bị bắt đưa sang Trung Quốc, nhưng vẫn để lại lời dặn bất hủ với Nguyễn Trãi tại ải Nam Quan, trở thành biểu tượng của khí tiết và đạo học.

Nguyễn Phi Khanh còn là nhà thơ, tác phẩm có Nhị Khê tập, 74 bài thơ Hán - Nôm của ông được chép lại trong Toàn Việt Thi lục. Những đóng góp của ông vừa ở lĩnh vực giáo dục, vừa ở văn chương, khiến ông được hậu thế trân trọng như bậc hiền nho tiêu biểu đầu thế kỷ XV.

Ngô Sĩ Liên (Thế kỷ XV)

Ngô Sĩ Liên là nhà sử học và quan lại nổi tiếng đời Lê sơ. Theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, ông đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Đây là khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức lễ xướng danh, yết bảng. Các tiến sĩ tân khoa được vua ban mũ áo, vào cung dự yến, được ban ngựa quý để tham quan kinh đô và được tổ chức lễ đón rước trọng thể khi vinh quy bái tổ.

Theo lệnh vua Lê Thánh Tông, họ tên các tiến sĩ được khắc lên bia đá tại Văn Miếu, “làm gương sáng cho muôn đời”.

Sau khi đỗ đạt, Ngô Sĩ Liên từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Hữu thị lang Lễ bộ, Triều liệt đại phu kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, đồng thời là sử quan trực tiếp tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông.

Đóng góp quan trọng nhất của ông là biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư, hoàn thành vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10, đặt nền móng cho nền sử học Việt Nam và trở thành tài liệu lịch sử quý giá cho các thế hệ sau.

Lê Quý Đôn (1726 - 1784)

Lê Quý Đôn là nhà bác học, nhà nho, nhà nghiên cứu chính trị - quân sự nổi tiếng. Thuở nhỏ, ông nổi bật với trí thông minh, trí nhớ tốt và sự chăm chỉ học tập. Từ điển nhân vật lịch sử Việt ghi chép, ở tuổi 17 tuổi, ông đỗ Giải nguyên, 26 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình và đỗ đầu Bảng nhãn (lúc bấy giờ không lấy Trạng nguyên).

Sau khi đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ nhiệm làm quan, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê - Trịnh như Thị thư, Thị giảng ở Viện Hàn lâm, Toản tu quốc sử, Thừa chỉ Viện Hàn lâm, Học sĩ ở Bí thư các, Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Ông nổi bật với học vấn toàn diện, đặc biệt trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế và thiên văn, và để lại nhiều công trình đồ sộ như Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục, Đại Việt thông sử, phản ánh tinh thần thực học, khảo cứu thực tế và kiến thức quản lý nhà nước.

Các tin khác