
Giáo viên, học sinh Trường THPT Nam Việt, TPHCM (Ảnh: Huyên Nguyễn).
Năm học này, ngành Giáo dục đứng trước cơ hội chưa từng có. Chưa bao giờ GD&ĐT được Đảng, Nhà nước quan tâm và kỳ vọng nhiều như hiện nay.
Trong đó, quan trọng nhất là việc Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển GD&ĐT. Đây là nền tảng chính trị quan trọng để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đã được xác lập từ Nghị quyết 29-NQ/TW (năm 2013) và tiếp tục được nhấn mạnh tại Kết luận số 91-KL/TW (năm 2024).
Trước thềm những thay đổi mang tính chiến lược này, sự chung tay đóng góp từ toàn xã hội là vô cùng cần thiết.
Mọi ý kiến đóng góp từ chuyên gia và bạn đọc xin gửi về email: [email protected]
Bài viết dưới đây là những chia sẻ và góc nhìn cá nhân của kỹ sư Lê Dũng.
Tri thức là sản phẩm chung của nhân loại. Có nhiều thứ bây giờ loài người sử dụng, hay có được, không phải là sản phẩm hay sáng chế sáng tạo, phát minh khám phá, của riêng ai.
Từ ngôn ngữ đến chữ viết, từ các điệu múa dân gian hay trang phục truyền thống, từ mái nhà 3 gian 2 chái của ông cha cho đến tháp Chăm, từ các vị thuốc dân gian cho đến cách nhìn trời xem thời tiết… tất thảy đều là sáng tạo của số đông, của tri thức tập thể, của một hay nhiều cộng đồng rộng lớn, tạo nên một vùng văn hóa, hay bản sắc riêng có của một quốc gia.
Ông Khổng Tử là một người thầy Nho học, được cha ông ta thờ trong Văn Miếu cùng cụ Chu Văn An, có chép lại của người xưa một câu trong Luận ngữ, trong ba người đi cùng, có một người ắt là thầy ta.
Vậy nếu 30 người, 300 người, 3.000 người, 3 vạn người, thì sao? Đó là một tổ hợp trí tuệ vô bờ bến, nếu biết cách khai thác và sử dụng một cách hiệu quả.
Nghị quyết số 29 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và mới đây là Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo chính là mở lối cho việc khai thác và sử dụng đó.
Bằng mọi phương pháp hợp lý, mọi nguồn lực có thể tranh thủ, mọi cách thức có thể nâng tầm, mọi nỗ lực có thể động viên, khích lệ, tạo cảm hứng cho học sinh lẫn thầy cô giáo, sao cho qua đó, tích lũy trí tuệ vô hạn của tập thể, của số đông.
Mọi người cùng nhau tìm ra tiếng nói chung, để kiến tạo một nền giáo dục đạt được những thành tựu mới, đáp ứng cho bài toán mà thực tiễn đã đặt ra, sắp xếp lại giang sơn, bước vào kỷ nguyên mới, như lời bác Hồ đã dạy, xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn.

Chính phủ đặt mục tiêu học sinh sẽ sử dụng bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc ngay từ năm 2026 (Ảnh: Huyên Nguyễn).
Theo số liệu thống kê đến tháng 9/2024, nước ta có 1.659.589 nhà giáo, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục. Trong khi trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng ta chỉ có 5.000 đảng viên, đồng lòng nhất trí mà giành lại độc lập, tự chủ và tự cường.
Vậy hơn 1,6 triệu giáo viên mà đồng lòng, nhất trí, quyết tâm cùng nhau chung tay vì nền giáo dục nước nhà thì đó là một sức mạnh có thể “dời non lấp biển”.
Vậy, làm thế nào để có thể hội tụ được sức mạnh của hơn 1,6 triệu con người gánh vác trên vai sứ mệnh giáo dục? Theo tôi có 3 vấn đề cần quan tâm.
Một là củng cố, duy trì và phát huy tinh thần của Nghị quyết 29, xem sách giáo khoa là học liệu, để cho trí tuệ của hơn 1,6 triệu giáo viên và hơn 25 triệu học sinh trên cả nước được tự do sáng tạo, điều chỉnh và thích ứng tùy theo mức độ của từng vùng dân cư, phát huy những sắc màu riêng có, trên cơ sở chuẩn mực cơ bản đã đặt ra. Khi đó, một bộ sách thống nhất hay 10 bộ sách không phải là vấn đề quan trọng.
Hai là, phải tách quyền ra đề ra khỏi nhà trường. Một trong những yêu cầu của Nghị quyết 71 là tiếp tục đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, bảo đảm đánh giá trung thực kết quả học tập và giảng dạy.
Do nếp cũ vẫn còn ăn sâu bám rễ, nên tệ khoanh vùng, giới hạn, cung cấp bài mẫu, hay học tủ vẫn còn tồn tại đâu đó trong các trường học, bởi quyền ra đề vẫn thuộc về nhà trường.
Để phá bỏ các hạn chế đó, giải phóng hoàn toàn tư duy giáo dục lệ thuộc vào “phao” được trang bị trước, đưa giáo dục về đúng bản chất, đề thi phải do một cơ quan độc lập với nhà trường phát hành.
Cách thức trước mắt là dùng đề của xã này thi cho xã khác, của tỉnh này thi cho tỉnh khác. Hay nói cách khác, là trước kỳ thi học kỳ, tất cả các xã trong tỉnh nộp đề thi về Sở GD&ĐT. Và khi thi, mỗi xã sẽ tiến hành bốc thăm ngẫu nhiên thông qua phần mềm điện tử. Trúng đề nào thi đề đó.
Với các kỳ thi quan trọng, như hết năm học, hết cấp học, sẽ sử dụng bốc thăm ngẫu nhiên giữa các tỉnh. Các tỉnh sẽ nộp đề thi về Bộ GD&ĐT, và Bộ sẽ cho triển khai bốc thăm ngẫu nhiên.
Cách thức lâu dài là cần xây dựng ngân hàng đề thi.
Hiện chúng ta có 3.321 đơn vị hành chính cấp xã. Xã quản lý giáo dục đến hết cấp 2. Mỗi xã ban hành một đề thi, thì Bộ GD&ĐT có 3.321 đề thi trong ngân hàng đề.
Khi các thước đo và chuẩn mực đánh giá, kiểm nghiệm được đưa ra, sẽ tiến tới mở rộng đại trà hơn.
Cả nước có 12.166 trường tiểu học, 10.753 trường THCS, 2.949 trường THPT. Nếu yêu cầu mỗi xã, mỗi tỉnh phải đưa ra số lượng đề, tương đương với số trường mà mình quản lý, ứng với từng cấp học, thì Bộ GD&ĐT sẽ có ứng với mỗi lớp là 12.166 đề thi cấp tiểu học, 10.753 đề thi cho mỗi lớp ứng với cấp THCS và 2.949 đề thi ứng với mỗi lớp ở cấp THPT.
Như vậy, trong 6 tháng đến 1 năm, dữ liệu có cho ngân hàng đề thi quốc gia đã có được con số hàng vạn đề.
Nếu làm liên tục 5 năm, vừa làm, vừa cập nhật, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, con số đó sẽ lên đến hàng triệu đề khác nhau.
Không thầy cô nào, không học sinh nào có thể dạy tủ, học tủ được giữa biển tri thức mênh mông do hàng triệu thầy cô giáo chuẩn bị đó, nên chỉ có học thật, mới có thể ứng phó được.

Một tiết dạy học sáng tạo của giáo viên Trường Tiểu học Lương Thế Vinh, phường Thông Tây Hội, TPHCM (Ảnh: Huyên Nguyễn).
Vấn đề thứ 3, đó là cơ sở học liệu, dữ liệu cho giáo viên, học sinh.
Hàng chục năm, cả giáo viên và học sinh chỉ bám vào sách giáo khoa, học sách giáo khoa, thi sách giáo khoa, nên dẫn đến nhu cầu đọc để mở mang kiến thức không có.
Bởi nhu cầu học để thi lấn át nhu cầu học để sống, để biết, để làm. Lâu dần, thói quen đọc mai một, dẫn đến một kết quả đáng buồn, là bình quân đọc sách ngoài sách giáo khoa của người Việt chưa tới 1 cuốn/năm, bằng 10% Thái Lan và Trung Quốc.
Do đó, việc phục dựng lại thói quen đọc đã có từ thời cha ông ta rất cần thiết. Không xa lắm, chỉ cách đây mấy mươi năm, người chiến sĩ cộng sản vào tù còn dạy nhau học toán, lý, hóa, văn chương, nghệ thuật, như trưng bày tại Bảo tàng Côn Đảo đang có.
Muốn có thói quen đọc cho người chưa có thói quen, phải áp đặt và cung cấp cho họ công cụ. Do đó, bức thiết là Bộ GD&ĐT phải ban hành danh mục đọc bắt buộc và khuyến nghị như ở Nga, Ba Lan, Úc cùng nhiều quốc gia khác trên thế giới đang làm.
Muốn có danh mục đọc, phải tuyển chọn và khẩn cấp dịch thuật đáp ứng chuẩn mực Nhà nước đối với tri thức nền tảng của nhân loại, mà Bách Khoa toàn thư của các nước tiên tiến như Trung Quốc, Anh là các ví dụ tiêu biểu.
Có danh mục đọc, có học liệu tham khảo, thầy cô giáo cũng theo đó, có cơ sở tham chiếu, để mở rộng kiến thức của mình, đồng thời làm phong phú hơn cho việc ra đề thi, đóng góp vào ngân hàng dữ liệu đề thi quốc gia.
Để thay cho lời kết, tôi cho rằng, khi có ngân hàng dữ liệu đề thi, việc mời chuyên gia về luyện để có giải quốc gia, quốc tế sẽ tự thoái trào. Bởi đề thi học sinh giỏi sẽ không nằm trong tay chuyên gia, mà nằm trong ngân hàng đề. Không một ai đủ kiến thức để “luyện đề” được cả.
Khi đó, các trường chỉ mời những nhà trí thức danh giá và có nhiều đóng góp, những nghệ sĩ tài năng, những người thợ tài hoa, những bác sĩ, kỹ sư, nhà hoạt động xã hội có nhiều đóng góp, những bậc cha mẹ vượt khó nuôi con có thành tựu, những chiến sĩ nơi biên cương và hải đảo và thậm chí là các vị tướng có nhiều thành tích trong việc trấn áp tội phạm, đem lại cuộc sống an toàn cho người dân… về trường làm diễn giả.
Họ chính là những tấm gương thực thụ, khích lệ và động viên thế hệ tương lai của đất nước, giúp con em mình định hình nhân cách, xây dựng hoài bão, sống hướng thiện, nhiệt tâm và kiên trì theo đuổi đam mê.
Nếu quyết tâm như thế, chỉ 5 năm là nền giáo dục có thành tựu rõ ràng.
Kỹ sư Lê Dũng