Hồ sơ thẩm định dự án luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Thuế giá trị gia tăng vừa được công bố.
Luật Thuế giá trị gia tăng vừa có hiệu lực từ ngày 1.7, song thời gian qua, Bộ Tài chính đã nhận văn bản kiến nghị của nhiều đơn vị phản ánh vướng mắc về chính sách thuế giá trị gia tăng.

Luật Thuế giá trị gia tăng mới có hiệu lực vài tháng, song Bộ Tài chính đã nhận được nhiều kiến nghị vướng mắc
ẢNH: NGỌC THẮNG
Tại dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung nội dung quy định về chính sách thuế giá trị gia tăng với sản phẩm nông sản, thức ăn chăn nuôi và điều kiện hoàn thuế.
Cụ thể, theo điều 5 luật Thuế giá trị gia tăng, đối tượng không chịu thuế là sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
Tại dự thảo luật, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi thành: "Đối tượng không chịu thuế là sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
Doanh nghiệp, hợp tác xã mua sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào".
Bộ Tài chính lý giải, doanh nghiệp phải trả thuế giá trị gia tăng 5% đầu vào đối với hàng hóa là các sản phẩm nông nghiệp mua bán ở khâu thương mại.
Số thuế giá trị gia tăng thu rồi lại hoàn thuế cho những mặt hàng mà phần lớn sản lượng sản xuất ra được dành để xuất khẩu (như cá da trơn, hồ tiêu, cà phê...) dẫn đến lãng phí thời gian, tiền bạc và đọng vốn của doanh nghiệp, trong khi các tổ chức tín dụng không giải ngân phần thuế này khi cấp vốn lưu động, gây áp lực tài chính, giảm hiệu quả kinh doanh.
Cạnh đó, nông sản, thủy sản nhập khẩu không phải chịu thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu vào Việt Nam. Vì vậy, đây là sự phân biệt đối xử không đáng có giữa nông sản, thủy sản sản xuất trong nước và nông sản, thủy sản nhập khẩu.
Minh họa điển hình về hệ quả của sự phân biệt đối xử này là người nhập khẩu sẽ không phải vay ngân hàng để nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu trong khi doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải vay ngân hàng để nộp khoản thuế này cho Nhà nước khi mua nông sản, thủy sản sản xuất trong nước để xuất khẩu.
Bộ Tài chính dẫn chứng, Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự kiến, trong 6 tháng cuối năm 2025, xuất khẩu gạo đạt khoảng 3 - 3,2 triệu tấn, giá bình quân 517 USD/tấn thì số thuế giá trị gia tăng 5% mà các doanh nghiệp phải nộp tạm tính khoảng 77,55 triệu USD, tương đương khoảng 2.016 tỉ đồng.
Theo Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, dự kiến cả năm 2025 xuất khẩu 1,5 triệu tấn cà phê với kim ngạch khoảng 7,5 tỉ USD. Như vậy, nếu tính 5% thuế giá trị gia tăng thì các doanh nghiệp phải nộp chờ hoàn khoảng 375 triệu USD, tương đương khoảng 10.000 tỉ đồng…
"Theo đó, cần thiết quy định lại nội dung này của luật Thuế giá trị gia tăng", Bộ Tài chính nhấn mạnh.
Bỏ điều kiện người bán đã nộp thuế, người mua mới được hoàn
Về hoàn thuế giá trị gia tăng, dự thảo cũng xóa bỏ quy định tại điểm c khoản 9 điều 15 luật Thuế giá trị gia tăng về điều kiện hoàn thuế giá trị gia tăng là: "Cơ sở kinh doanh thuộc trường hợp hoàn thuế phải đáp ứng các điều kiện người bán đã kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định đối với hóa đơn đã xuất cho cơ sở kinh doanh đề nghị hoàn thuế".

Năm 2025, nếu tính 5% thuế giá trị gia tăng thì các doanh nghiệp ngành cà phê phải nộp chờ hoàn khoảng 10.000 tỉ đồng
ẢNH: ĐAN THANH
Theo Bộ Tài chính, các doanh nghiệp khi xuất khẩu được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, nhưng bị chậm do phải chờ các người bán hàng cho mình đã kê khai, nộp thuế theo quy định tại điểm c khoản 9 điều 15 luật Thuế giá trị gia tăng.
Điều này gây khó khăn và rủi ro thực tiễn cho doanh nghiệp đề nghị hoàn thuế vì doanh nghiệp mua không có công cụ pháp lý hay kỹ thuật để kiểm tra tình trạng tuân thủ thuế của nhà cung cấp tại thời điểm lập hồ sơ hoàn thuế.
Nếu bên bán chưa nộp hồ sơ khai thuế hoặc còn nợ thuế giá trị gia tăng, hóa đơn của doanh nghiệp mua sẽ không được chấp nhận hoàn thuế, dù doanh nghiệp mua hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ kê khai, lưu giữ chứng từ hợp lệ và thanh toán qua ngân hàng theo quy định.
Việc bị từ chối hoàn thuế vì lý do này sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền, tiến độ sản xuất kinh doanh và gây thiệt hại cho doanh nghiệp dù không có lỗi chủ quan của doanh nghiệp là người mua hàng.





