Quốc hội sáng nay thảo luận ở hội trường về dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) và việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (TPHCM) cho biết qua nghiên cứu dự thảo luật, ông nhận thấy quy trình được đưa ra kéo dài qua nhiều lượt lấy ý kiến, thẩm định và trình duyệt. Để rút ngắn thời gian phê duyệt mà vẫn bảo đảm chất lượng, đại biểu đề nghị cân nhắc luật hóa thêm cơ chế “nộp hồ sơ điện tử đồng bộ” kèm thời hạn bắt buộc phản hồi của từng cơ quan. Theo ông, đây là giải pháp then chốt để đẩy nhanh tiến độ và chất lượng, hiệu quả của quy hoạch.

"Thực tiễn cho thấy nhiều dự án trọng điểm đang bị chậm do quy trình nội bộ kéo dài, làm tăng chi phí và giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế" - đại biểu Hùng dẫn chứng và cho rằng đây là một gánh nặng cho chủ đầu tư. Nhà đầu tư phản ánh về việc một số quy hoạch chi tiết dù đã hoàn thành đầy đủ nhưng vẫn phải trải qua nhiều vòng thẩm định nội bộ tại các cơ quan khác nhau. Thay vì quy trình một cửa thì nhà đầu tư buộc phải chạy đua với thời gian và con người, đi lại giữa các cơ quan nhà nước nhiều lần chỉ để giải trình những nội dung đã được làm rõ trong hồ sơ.
"Có những dự án phải chờ hàng tháng trời để lấy được văn bản góp ý từ một phòng, ban, sau đó tiếp tục chờ và đợi. Điều này không chỉ gây lãng phí cơ hội và thời gian mà còn làm xói mòn niềm tin, khiến nhiều nhà đầu tư chán nản, buộc phải tạm dừng hoặc phải rút lui khỏi các dự án" - ông Hùng nói.
Cũng phát biểu về nội dung này, đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho rằng quy trình lập, thẩm định, phê duyệt nên chuyển từ tuần tự sang tích hợp. Bởi theo ông Đồng, quy trình nhiều vòng lặp làm giảm tốc độ triển khai, đặc biệt với quy hoạch tỉnh. Việc rút ngắn quy trình là cần thiết nhằm tránh bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
Ông cũng kiến nghị điều chỉnh gộp nội dung lấy ý kiến - giải trình - thẩm định vào quy trình liên thông; áp dụng thẩm định song song để giảm thời gian xử lý hồ sơ.

Trong quy hoạch tỉnh, đại biểu tỉnh Quảng Trị kiến nghị trao quyền điều chỉnh mạnh hơn để tăng tính chủ động. Hiện nay, địa phương phải xin nhiều cấp khi điều chỉnh cục bộ, dù phạm vi nhỏ, gây chậm trễ và giảm tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư.
Ông đề nghị cho phép tỉnh tự điều chỉnh cục bộ trong biên độ hợp lý; được kiến nghị điều chỉnh quy hoạch ngành khi có hiệu quả kinh tế - xã hội vượt trội; khuyến khích mạnh mẽ phát triển logistics, không gian ngầm, đô thị TOD, năng lượng tái tạo.
Quy hoạch phát triển vùng phải dựa trên 3 trụ cột
Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (Cần Thơ) thì nhất trí cao với việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ông nhìn nhận việc điều chỉnh cũng đồng nghĩa với định hình lại không gian phát triển, huy động và phân bổ nguồn lực có trọng tâm trọng điểm, tái cấu trúc mô hình tăng trưởng.
Đại biểu nhất trí với việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng GDP giai đoạn 2026-2030 là đạt 10%/năm trở lên.
"Mô hình tăng trưởng kinh tế cho thấy mục tiêu này phụ thuộc chủ yếu vào 3 yếu tố là vốn, lao động và đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Theo mô hình tăng trưởng kinh tế Solow, để tăng trưởng GDP đạt hơn 10% thì tốc độ tăng năng suất lao động phải đạt từ 9% trở lên và đóng góp TFP khoảng 60%" - ông phân tích.

Hiện đề xuất điều chỉnh tại dự thảo nghị quyết đối với 2 chỉ tiêu trên lần lượt là trên 8,5% và 55%. Đại biểu Hùng nhận định như vậy có thể là chưa đủ để đạt mục tiêu tăng trưởng. Do đó, ông đề nghị cân nhắc để điều chỉnh 2 mục tiêu này ở mức 9% và 60% trở lên, nhất là trong bối cảnh phải tiếp tục duy trì tốc độ tăng GDP khá cao trong 10-15 năm tiếp theo và xuất phát điểm năng suất lao động của Việt Nam khá thấp (chỉ bằng 1/8 của Singapore, 1/4-1/5 của Nhật, Hàn Quốc, 1/3 của Malaysia, 1/2 của Thái Lan).
Về phân vùng kinh tế xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng, ông Hùng cho rằng đây là nội dung đặc biệt quan trọng để thiết kế không gian phát triển và phân bổ nguồn lực quốc gia. Ông nhất trí quy hoạch phát triển vùng phải dựa trên 3 trụ cột là 6 vùng kinh tế xã hội, 5 vùng động lực và các hành lang kinh tế.
Ông đề nghị bổ sung nội dung để bảo đảm thể chế và cơ chế điều phối và liên kết vùng, nhất là việc kết nối, liên kết giữa các vùng, tạo không gian để các địa phương trong vùng và giữa các vùng với nhau có được sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, tránh mâu thuẫn, trùng lắp, phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của vùng.
Đồng thời, ông đề nghị bổ sung nội dung về tính kết nối của các vùng với các quốc gia có biên giới trên đất liền và trên biển với nước ta, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới theo các hành lang kinh tế đã và đang hình thành.








