Cập nhật giá tiêu
Tại thị trường trong nước
Ghi nhận trong sáng đầu tuần, giá tiêu tại các tỉnh thành sản xuất trọng điểm vẫn duy trì ổn định trong khoảng 150.000 – 151.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá tiêu tại Đắk Lắk và Đắk Nông (tỉnh Lâm Đồng) hiện đang được thu mua ở mức cao nhất là 151.000 đồng/kg. Tiếp đến là Gia Lai đạt 150.500 đồng, trong khi Bình Phước (tỉnh Đồng Nai) và Bà Rịa – Vũng Tàu (TP.HCM) phổ biến ở mức 150.000 đồng/kg.
|
Thị trường (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua ngày 1/12 (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với ngày hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg) |
|
Đắk Lắk |
151.000 |
- |
|
Gia Lai |
150.500 |
- |
|
Đắk Nông |
151.000 |
- |
|
Bà Rịa – Vũng Tàu |
150.000 |
- |
|
Bình Phước |
150.000 |
- |
|
Đồng Nai |
150.000 |
- |
Trên thị trường thế giới
Theo dữ liệu của Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), trong phiên giao dịch gần nhất, giá tiêu đen Indonesia đạt 7.136 USD/tấn, tiêu đen Brazil ASTA 570 đứng ở mức 6.175 USD/tấn, trong khi tiêu đen Malaysia đạt 9.200 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu tiếp tục duy trì trong khoảng 6.500 – 6.700 USD/tấn đối với loại 500 g/l và 550 g/l.
|
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới |
|
|
Ngày 1/12 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.136 |
- |
|
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
6.175 |
- |
|
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
9.200 |
- |
|
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.500 |
- |
|
Tiêu đen Việt Nam (500 g/l) |
6.700 |
- |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia đạt 9.717 USD/tấn. Còn tại Malaysia và Việt Nam, giá tiêu trắng xuất khẩu lần lượt đứng ở mức 12.300 USD/tấn và 9.250 USD/tấn.
|
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới |
|
|
Ngày 1/12 (ĐVT: USD/tấn) |
% thay đổi so với hôm trước |
|
|
Tiêu trắng Muntok Indonesia |
9.717 |
- |
|
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
12.300 |
- |
|
Tiêu trắng Việt Nam |
9.250 |
- |
Theo báo cáo mới nhất của Nedspice, sản lượng hồ tiêu toàn cầu đã giảm hơn 30% trong 7 năm qua, xuống còn 430.000 tấn. Trong khi diện tích trồng của Brazil tiếp tục mở rộng, các quốc gia sản xuất lớn khác như Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia lại báo cáo sản lượng thấp hơn, phản ánh nguồn cung đang thắt chặt tại các nước sản xuất chủ chốt.
Nhu cầu toàn cầu trong năm nay diễn ra chậm, với mức giảm mạnh nhất – khoảng 30% – đến từ Mỹ, quốc gia nhập khẩu hồ tiêu lớn nhất thế giới. Tổng xuất khẩu của Việt Nam giảm 6% trong 10 tháng đầu năm. Nedspice cho rằng việc miễn giảm thuế quan đối ứng có thể giúp nhu cầu của Mỹ phục hồi.
Nhà Trắng đã ban hành một Sắc lệnh mới miễn trừ thuế đối với các loại gia vị không được trồng tại Mỹ, có hiệu lực từ ngày 13/11/2025. Điều này đồng nghĩa hồ tiêu đã được chuyển sang Phụ lục II, xác nhận rằng mặt hàng này sẽ không còn chịu bất kỳ mức thuế đối ứng nào.
Trong khi đó, Việt Nam hiện là điểm đến hàng đầu của lượng hồ tiêu xuất khẩu tăng thêm từ Brazil, cho thấy sự phụ thuộc ngày càng lớn của quốc gia này vào nhập khẩu để phục vụ hoạt động tái xuất.
Nhập khẩu của Việt Nam trong 10 tháng đã tăng 32% so với cùng kỳ, lên 38.000 tấn; riêng nhập khẩu từ Brazil đã tăng gấp đôi. Tuy nhiên, lượng tồn kho vẫn tiếp tục giảm do sản xuất và nhập khẩu thấp hơn xuất khẩu.
Theo ước tính ban đầu, sản lượng vụ mùa năm sau của Việt Nam có thể giảm xuống còn 153.000 tấn do thời tiết bất lợi, trong khi diện tích trồng dự kiến duy trì ổn định hoặc tăng nhẹ.
Sản lượng thu hoạch năm 2025 của Việt Nam đạt 172.000 tấn, giảm 2% và thấp hơn 47% so với mức đỉnh của niên vụ 2018-2019. Các cơn bão trong tháng 10–11 được dự báo sẽ tác động tiêu cực ở mức độ nhẹ đến sản lượng năm 2026.
Tại Việt Nam, giá hồ tiêu giảm vào giữa năm do những bất ổn liên quan đến thuế nhập khẩu của Mỹ, các vướng mắc về VAT trong nước và nhu cầu yếu.
Hiện vụ thu hoạch cà phê đã bắt đầu tại một số tỉnh, mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân, từ đó khiến áp lực bán hồ tiêu giảm. Nông dân tại các khu vực này hiện đang giữ hàng, kỳ vọng giá sẽ tăng trong thời gian tới.
Sau đợt tăng giá mạnh hơn 80% trong nửa đầu năm 2024, hiện giá duy trì trong biên độ từ 6.000 USD/tấn đến 8.000 USD/tấn.
Tại Brazil, sản lượng hồ tiêu của nước này trong năm 2025 được dự báo đạt 89.000 tấn nhờ diện tích trồng tăng liên tục, nhưng tình trạng thiếu lao động có thể khiến một phần vụ mùa không được thu hoạch đầy đủ.
Sản lượng của Indonesia ước tính đạt 36.000 tấn, trong khi tồn kho dự kiến ở mức thấp sau khi nước này xuất khẩu lượng lớn với 45.000 tấn, được tung ra thị trường khi giá tăng trong năm 2024.




