Giáo dục

Giáo sư Nhật hiến kế cho trường nghề Việt Nam

trường nghề - Ảnh 1.

Các sinh viên thực tập nghề tại Ube Kosen - Ảnh: TRƯỜNG CUNG CẤP

Đây là chia sẻ của GS Hatamura Manabu, Phó hiệu trưởng Trường Ube Kosen, với Tuổi Trẻ trong chuyến công tác tại Việt Nam mới đây.

Nhiều năm qua nhóm các trường Kosen tại Nhật đã triển khai những dự án đồng hành cùng nhiều trường nghề Việt Nam về đào tạo và kết nối quốc tế.

Muốn cạnh tranh, tôi nghĩ trường nghề Việt Nam cần biến xưởng - lab - dự án thành nơi học chính. Mỗi học kỳ phải có sản phẩm, đầu ra cụ thể gắn với bài toán sản xuất và được đo bằng năng lực làm được việc.

GS HATAMURA MANABU

Không ngoài áp lực đổi mới

* Kosen ở Nhật đã quá nổi tiếng. Ông có thể chia sẻ những điểm nhấn nổi bật của chương trình đào tạo nghề này?

- Kosen cho phép học sinh theo đuổi con đường kỹ sư ngay từ sau bậc THCS, liền mạch kéo dài 5 năm. Kiến thức nền tảng và đào tạo chuyên môn kỹ thuật được tích hợp song song giúp người học sớm hình thành tư duy kỹ thuật thay vì chỉ tiếp cận chuyên ngành khi đã 18 - 19 tuổi.

trường nghề - Ảnh 2.

GS Hatamura Manabu

Người học dành nhiều thời gian cho phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, các dự án kỹ thuật và bài toán thực tế do doanh nghiệp đặt ra.

Từ robot, cơ khí chính xác, điện - điện tử đến công nghệ thông tin, chương trình gắn chặt với nhu cầu của sản xuất và công nghiệp.

Từ những năm đầu sinh viên đã tham gia thực tập, tham quan nhà máy, làm dự án cùng kỹ sư đang làm việc trong ngành.

Ngoài tiếp nhận thực tập, doanh nghiệp còn tham gia phản biện, góp ý cho chương trình đào tạo.

Sau 5 năm, sinh viên Kosen có thể đi làm ngay hoặc chuyển tiếp vào năm 3 đại học để hoàn tất bằng cử nhân.

Nghĩa là chương trình không đóng khung vào khuôn khổ giáo dục nghề thuần túy mà có hướng trở thành một con đường song song giữa học thuật và thực hành. Nhiều cựu sinh viên hiện giữ vị trí kỹ sư chủ chốt, quản lý kỹ thuật hoặc tiếp tục nghiên cứu ở trình độ cao hơn.

* Trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh, từ trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa đến chuyển đổi số và công nghiệp xanh, các trường Kosen phải chăng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức, thưa ông?

- Đúng vậy, thời gian qua các trường Kosen đã cố gắng điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng liên ngành và cập nhật công nghệ mới thay vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật truyền thống. Nhiều trường bổ sung mạnh các học phần về AI, khoa học dữ liệu, IoT, robot thông minh, an ninh mạng, đồng thời tích hợp tư duy số và kỹ năng lập trình vào cả những ngành cơ khí, điện - điện tử…

Thách thức lớn nhất là làm sao cập nhật công nghệ đủ nhanh trong khi vẫn giữ được bản sắc đào tạo thực hành căn bản. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đào tạo lại đội ngũ giảng viên và xây dựng chương trình liên ngành đòi hỏi nguồn lực lớn.

Ở góc độ dài hạn, chính những thay đổi này lại mở ra bài toán chiến lược cho Kosen chuyển từ vai trò cung cấp kỹ sư cho công nghiệp sang vai trò đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật có khả năng thích ứng và đổi mới.

trường nghề - Ảnh 3.

Ở Nhật, học sinh giỏi và yêu thích kỹ thuật chọn vào Kosen từ THCS - Ảnh: CTV

Dạy nghề phải gắn liền doanh nghiệp

* Nhiều năm qua triển khai các chương trình hợp tác đào tạo với các trường cao đẳng Việt Nam, cá nhân ông đánh giá thế nào về hệ thống trường nghề trong nước?

- Nhiều năm qua các trường Kosen của Nhật duy trì mạng lưới làm việc khá dày với các trường cao đẳng Việt Nam, đặc biệt với nhóm trường thí điểm trong chương trình phối hợp cùng Bộ Công Thương Việt Nam. Điểm mạnh dễ thấy của nhiều trường cao đẳng Việt Nam là tính thực tiễn và khả năng bắt tay vào việc nhanh, nhất là ở những cơ sở có truyền thống kỹ thuật, có xưởng thực hành và có quan hệ gần với khu công nghiệp.

Tuy vậy, phía đối tác Nhật khi làm việc với các trường Việt Nam cũng thường gặp một thực tế như chất lượng giữa các trường không đồng đều và "độ sâu" thực hành phụ thuộc mạnh vào điều kiện thiết bị, đội ngũ và cách tổ chức đào tạo. Bên cạnh đó là tốc độ thay đổi công nghệ và năng lực cập nhật chương trình, thiết bị ở nhiều trường.

Với các ngành đang dịch chuyển nhanh như tự động hóa, AI ứng dụng hay bán dẫn, thách thức nằm ở chỗ nhà trường cần vừa giữ chắc nền tảng nghề vừa bổ sung dần các mô đun mới theo đúng năng lực đội ngũ và điều kiện phòng thí nghiệm. Nhu cầu của doanh nghiệp Nhật về nhân lực có kiến thức và kỹ năng chuyên môn cao đang tăng nên áp lực theo kịp càng rõ.

Các trường nghề Việt Nam đang tận dụng mạng lưới các trường cao đẳng Nhật để chuẩn hóa một phần chương trình, mở rộng trao đổi sinh viên giảng viên, đẩy mạnh thực tập và các hoạt động kết nối tuyển dụng theo ngành. Nhưng thách thức cũng nằm ngay trong nội lực. Đó là đầu tư thiết bị có trọng tâm, nâng năng lực giảng viên và quan trọng nhất là xây được cơ chế gắn kết doanh nghiệp thực chất.

* Từ góc nhìn cá nhân, ông có những hiến kế gì cho phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam, nhất là khi lần đầu Việt Nam sẽ có chương trình trung học nghề có nhiều điểm tương đồng với mô hình Kosen?

- Tôi nghĩ điều đầu tiên là xác định lại "lõi năng lực" của từng ngành rồi chuẩn hóa nó thành một khung chương trình cốt lõi đủ rõ, đủ đo được, đủ nhất quán giữa các khóa. Kosen vận hành bằng tư duy này rất mạnh, có các bộ tiêu chuẩn làm chuẩn tối thiểu về năng lực và nội dung mà người học phải đạt, từ đó mới phát triển các phần nâng cao theo những thế mạnh riêng.

Thứ hai là đưa mô hình học theo dự án và thực hành thành xương sống. KOSEN có chương trình đào tạo kỹ thuật sáng tạo và thực tiễn, có cấu trúc kiểu môn đại cương nhiều ở giai đoạn đầu, sau đó tăng dần chuyên môn, thí nghiệm, nghiên cứu tốt nghiệp, đặc biệt gắn với hợp tác doanh nghiệp qua nhiều hoạt động.

Muốn cạnh tranh, tôi nghĩ trường nghề Việt Nam cần biến xưởng - lab - dự án thành nơi học chính. Mỗi học kỳ phải có sản phẩm, đầu ra cụ thể gắn với bài toán sản xuất và được đo bằng năng lực làm được việc. Nếu coi doanh nghiệp là đối tác đồng đào tạo thì doanh nghiệp phải tham gia đặt đề bài, phản biện chuẩn đầu ra, đánh giá thực tập. Ngược lại nhà trường phải cam kết chất lượng và kỷ luật triển khai.

Cuối cùng, nếu muốn tăng sức cạnh tranh theo nghĩa rộng hơn, các trường nghề Việt Nam cần đầu tư đúng vào đội ngũ và năng lực tổ chức đào tạo. Cần phát triển giảng viên theo hướng vừa có nền tảng sư phạm vừa có năng lực công nghệ và kinh nghiệm thực tế. Đồng thời xây các không gian học qua chế tạo để sinh viên được thử, sai, sửa, làm lại trong môi trường thật.

Xây dựng câu chuyện thành công của người học

* Ở Việt Nam, định kiến học nghề sau bậc THCS còn khá lớn. Tại Nhật, học sinh tốt nghiệp THCS có hào hứng vào Kosen không, thưa ông?

- Hoàn toàn ngược lại với Việt Nam. Học sinh giỏi, yêu thích kỹ thuật chọn vào Kosen ngay từ sau bậc học THCS vì đây là con đường rõ ràng để trở thành kỹ sư thực hành chất lượng cao. Tỉ lệ việc làm của sinh viên tốt nghiệp Kosen luôn ở mức rất cao, nhiều em được doanh nghiệp tuyển dụng sớm ngay từ khi còn học hoặc tiếp tục học lên các đại học kỹ thuật hàng đầu.

Theo tôi, một gợi ý là Việt Nam cần xây dựng được câu chuyện thành công của người học, thay vì chỉ nói về chương trình hay cơ sở vật chất. Khi xã hội nhìn thấy sinh viên trường nghề ra trường có việc làm tốt, thu nhập ổn định, thậm chí thăng tiến nhanh trong doanh nghiệp, hình ảnh trường nghề sẽ tự khắc thay đổi.

Cũng cần làm rõ lộ trình phát triển, rằng học nghề không phải đi vào ngõ cụt mà có thể đi làm sớm, học tiếp lên cao hơn hoặc chuyển đổi linh hoạt theo nhu cầu thị trường lao động.

Các tin khác