Chữ tịch (席) xuất hiện lần đầu bằng chữ giáp cốt vào thời nhà Thương, có hình dáng cổ xưa giống như một tấm chiếu dệt. Từ này đã từng xuất hiện trong quyển Dictionarium latino-anamiticum (1838) của Jean Louis Taberd, tương ứng với từ chiếu; storea (tiếng Latin), mở rộng hơn là chiếu mây (storea minea); chiếu hoa (storea ornata).
Tịch (hay chiếu) là vật dụng phổ biến, có nguồn gốc từ thời nhà Thanh (Trung Quốc). Trong bách khoa thư Nhất thị kỷ thủy của Ngụy Tung, có đề cập đến câu chuyện "Thần Nông làm chiếu cỏ" (Thần Nông tác tịch tiến).
Trong các văn bản chữ Hán của người Việt, chữ tịch với nghĩa là chiếu khá phổ biến, đó là một tấm vật liệu phẳng được dệt từ các dải tre, sậy hoặc cỏ, thường có hình chữ nhật. Loại chiếu phổ biến thời xưa là thảo tịch (chiếu cỏ, chiếu cói, chiếu lác); trúc tịch (chiếu tre, chiếu trúc); đằng tịch (chiếu mây); bồ thảo tịch (đồng nghĩa với thảo tịch)...
Vào thời cổ đại, người xưa thường ngồi trên chiếu để trò chuyện hoặc bàn công việc, điều này gọi là tịch địa. Tuy nhiên, không phải muốn ngồi chỗ nào cũng được, tất cả đều có quy định cụ thể, tùy theo địa vị, chức vụ và tuổi tác. Do đó, tịch còn có nghĩa là "chỗ ngồi"; nhập tịch là "vào chỗ ngồi"; xuất tịch là "rời khỏi chỗ ngồi" (ngày nay xuất tịch có nghĩa là "tham dự"), còn khuyết tịch là "vắng mặt" hoặc "không tham gia".
Tịch còn có nghĩa là một chức vị, chẳng hạn như hình tịch (người phụ trách các vụ án hình sự trong cơ quan chính phủ); thủ tịch là chính, hàng đầu, cao cấp nhất (thủ tịch pháp quan: quan tòa hàng đầu).
Tịch có thể là một bàn đầy thức ăn, một bữa tiệc (Thủy Hử truyện); yến tịch là tiệc lớn trong những dịp quan trọng, trong lễ hội hoặc lễ kỷ niệm, đa dạng món ăn và có số lượng nhiều, ta thường gọi trại là "yến tiệc".
Như vậy, từ nghĩa gốc là vật dụng làm bằng tre hoặc sậy, chữ tịch đã có thêm nhiều nghĩa mới theo thời gian.
Xin lưu ý, có khoảng 17 từ Hán Việt trở lên được viết là tịch. Những từ này có cách viết chữ Hán khác nhau và nghĩa cũng khác. Ngoài từ tịch (席) ở đây, còn có chữ tịch (藉) cũng có nghĩa là chiếu, tuy nhiên không liên quan gì tới bàn tiệc hay yến tiệc...
Chữ tịch (藉) này lần đầu được thấy bằng chữ Triện trong Thuyết Văn Giải Tự, nghĩa gốc dùng để chỉ cái chiếu bày lễ vật trong các buổi tế lễ cổ xưa hoặc trong các buổi triều yết (lúc các quan vào chầu vua). Về sau chữ này có nghĩa là "trân trọng", "chăm sóc" hoặc nói về sự rối loạn, náo động, giẫm đạp, bắt nạt hay có nghĩa là "an ủi", "làm dịu đi"...
Trong hệ thống chữ Nôm, có ít nhất 2 chữ tịch mượn từ Hán ngữ.
Chữ thứ nhất là tịch (夕), cấu tạo theo phép giả tá (mượn cả hình thức chữ và nghĩa của chữ Hán). Chữ này có nghĩa là "buổi chiều, buổi tối" như trong Hán ngữ. Thí dụ như bóng tịch dương (bóng mặt trời buổi chiều): "Chốn (nền) cũ lâu đài bóng tịch dương" (Bà Huyện Thanh Quan).
Chữ thứ hai là tịch (席), cấu tạo hình thanh (mượn âm, không mượn nghĩa), chẳng hạn như "tích tịch tình tang", dùng để chỉ những âm thanh mô phỏng theo tiếng đàn. Trong tác phẩm Câu hát góp (1897) của Huình Tịnh Paulus Của có câu: "Đờn kêu tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên hang mà về" (tr.24).











