Cơ quan soạn thảo là Thanh tra Chính phủ đã có báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội ở phiên thảo luận tổ về dự thảo luật này hôm 5/11.
Theo đó, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành việc quy định về giá trị tài sản, mức thu nhập phải kê khai và kê khai bổ sung. Một số ý kiến đề nghị làm rõ căn cứ của việc quy định tăng giá trị kê khai từ 50 triệu lên 150 triệu và giá trị tài sản, thu nhập bổ sung biến động trong năm từ 300 triệu lên 1 tỷ đồng.
Đồng thời, một số ý kiến cho rằng quy định giá trị tài sản, thu nhập phải kê khai từ 150 triệu đồng chưa bảo đảm thống nhất với giá trị tài sản, thu nhập biến động phải kê khai bổ sung từ 1 tỷ đồng/năm. Có ý kiến đề nghị bổ sung “tài sản số” vào danh mục kê khai; làm rõ cách xác định “tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai” và đề nghị quy định rõ loại tài sản phải kê khai, bao gồm tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản đứng tên chung.
Giải trình các ý kiến trên, Thanh tra Chính phủ cho biết việc quy định tăng giá trị kê khai từ 50 triệu đồng lên 150 triệu đồng và giá trị tài sản, thu nhập bổ sung biến động trong năm từ 300 triệu lên 1 tỷ đồng căn cứ vào 2 yếu tố chủ yếu. Thứ nhất, từ năm 2018 đến nay có 3 lần tăng lương. Thứ hai, điều kiện kinh tế xã hội đã phát triển gấp gần 3 lần, nhất là giá cả trên thị trường có nhiều biến động tăng so với năm 2018.
Theo Thanh tra Chính phủ, giá trị tài sản, thu nhập phải kê khai từ 150 triệu đồng áp dụng cho 3 phương thức kê khai (lần đầu, hàng năm, phục vụ công tác cán bộ). Trong khi đó, giá trị tài sản, thu nhập biến động từ 1 tỷ đồng/năm chỉ áp dụng cho kê khai bổ sung, theo dõi biến động và làm căn cứ xác minh khi giải trình không hợp lý. Do vậy, quy định như dự thảo luật là thống nhất và phù hợp với mục tiêu kiểm soát biến động tài sản, thu nhập có giá trị lớn.
Đối với “tài sản số”, Thanh tra Chính phủ cho biết pháp luật hiện hành chưa có quy định đầy đủ nên chưa đưa vào dự thảo luật và sẽ tiếp tục nghiên cứu khi có đủ cơ sở pháp lý.
Về khái niệm “tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai”, Thanh tra Chính phủ cho biết sẽ được giữ như luật hiện hành và được hướng dẫn cụ thể tại nghị định. Các tài sản thuộc quyền sở hữu của người kê khai, vợ, chồng, con chưa thành niên (bao gồm quyền sử dụng đất, nhà và tài sản gắn liền với đất hoặc đứng tên chung) đều phải kê khai; danh mục tài sản và mẫu biểu sẽ được Chính phủ quy định chi tiết tại Nghị định hướng dẫn thi hành luật.
Lãnh đạo cấp xã cũng phải thực hiện kê khai
Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, nhiều đại biểu Quốc hội tán thành bổ sung quy định việc kê khai, giải trình tài sản, thu nhập tăng thêm là tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể yêu cầu, cơ chế đánh giá và giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nội dung này đã được điều chỉnh bởi Luật Cán bộ, công chức nên không cần bổ sung.
Giải trình nội dung này, Thanh tra Chính phủ cho biết dự thảo luật thể chế hóa Kết luận số 105 ngày 4/12/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33 ngày 3/1/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản. Theo đó, việc kê khai và giải trình tài sản, thu nhập thành tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức, là căn cứ để các cơ quan, tổ chức, đơn vị đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Các nội dung về trình tự, tiêu chí đánh giá cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành về cán bộ, công chức, viên chức và quy định của Đảng. Do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị giữ nguyên quy định của dự thảo.
Về đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập hằng năm, có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung phó giám đốc sở và làm rõ tiêu chí xác định chức danh “tương đương giám đốc sở”, nhất là các chức danh lãnh đạo cấp xã, đồng thời đề nghị làm rõ cơ quan chịu trách nhiệm quy định và kiểm soát đối tượng tương đương.
Trả lời nội dung này, Thanh tra Chính phủ nêu rõ, đối tượng kê khai hàng năm tại địa phương chỉ áp dụng đối với giám đốc sở và tương đương là do kế thừa luật hiện hành, bảo đảm phù hợp với Quyết định 56 (phụ cấp chức vụ từ 0,9 trở lên).
Các chức danh tương đương được xác định theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương (như chánh thanh tra tỉnh, chánh văn phòng UBND tỉnh...). Các chức danh lãnh đạo cấp xã thực hiện kê khai theo các phương thức khác (lần đầu, bổ sung, phục vụ công tác cán bộ) và được kiểm soát theo quy định của Đảng và pháp luật, căn cứ theo vị trí chức danh của người kê khai.













