Xã Hội

"Ở nhờ" được tòa chia 30% giá trị nhà đất

VIỆN KIỂM SÁT ĐỀ NGHỊ KHÔNG TÍNH CÔNG SỨC GÌN GIỮ, TÔN TẠO

Viện KSND khu vực 15 - TP.HCM vừa ra quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm của tòa án cùng cấp, trong vụ tranh chấp đòi quyền sử dụng gần 400 m2 đất giữa nguyên đơn là bà N.L.H (50 tuổi) và bị đơn là bà P.T.N (87 tuổi) cùng 7 người khác.

'Ở nhờ' được tòa chia 30% giá trị nhà đất - Ảnh 1.

Viện kiểm sát đề nghị tòa không chấp nhận phản tố của phía bị đơn về yêu cầu tính công sức gìn giữ, tôn tạo tài sản trên thửa đất gần 400 m²

ẢNH: CTV

Theo bản án sơ thẩm, TAND khu vực 15 buộc bà H. phải thanh toán lại cho phía bị đơn 30% giá trị nhà đất, tương đương hơn 5,7 tỉ đồng, vì có công sức gìn giữ. Tuy nhiên, Viện KSND cho rằng phán quyết này vượt quá yêu cầu phản tố và không phù hợp với chứng cứ, nên đề nghị TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm, sửa bản án.

Theo hồ sơ, năm 2014, chồng bà N.L.H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gần 400 m2 ở tỉnh Bình Dương (nay là P.Thủ Dầu Một, TP.HCM). Đây là thửa đất mà cha mẹ chồng bà H. tặng cho chồng bà.

Năm 2022, chồng bà H. mất, sau khi phân chia di sản của chồng để lại, bà H. được đại diện các con đứng tên quyền sử dụng đất trên. Bà H. sau đó ký hợp đồng cho một người thuê đất, đã nhận cọc 90 triệu đồng nhưng không bàn giao được. Lý do, bà P.T.N (em gái ba chồng bà H.) cùng hai vợ chồng người con trai và hai người cháu; bà L.T.B.Th và vợ chồng con trai bà Th., đang ở trên đất này.

Bà H. gửi thông báo yêu cầu những người nói trên tìm chỗ ở mới để trả lại đất cho bà và các con đang còn nhỏ nhưng bất thành. Vì thế bà H. khởi kiện bà P.T.N cùng 7 người, yêu cầu di dời nhà, nhà tạm và các tài sản khác ra khỏi thửa đất; đồng thời buộc họ liên đới chịu trách nhiệm bồi thường 90 triệu đồng tiền cọc và khoản thiệt hại do bà không thể cho thuê.

Cuối tháng 9, TAND khu vực 15 - TP.HCM xét xử sơ thẩm vụ án. Tại tòa, bà H. cho rằng ngoài bà N. thì 7 bị đơn còn lại không có huyết thống gia đình với gia đình nhà chồng bà. Cụ thể, bà N. không có con nên đã nhận nuôi một người con trai. Người con này lấy vợ và sinh ra 2 người con rồi cũng ở tại thửa đất của nhà bà.

Bà L.T.B.Th là trẻ mồ côi, được cụ P.T.K (bà nội của chồng bà H., đã qua đời) cưu mang cho ở nhờ, chứ không có quan hệ huyết thống với gia đình. "Pháp luật không quy định việc ở nhờ được quyền yêu cầu tính công sức quản lý, gìn giữ tài sản. Các bị đơn được ở nhờ nhằm mục đích giải quyết chỗ ở tạm thời", phía bà H. trình bày với tòa.

Tuy nhiên, các bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có đơn phản tố yêu cầu tòa án tính công sức quản lý, gìn giữ làm tăng giá trị nhà đất tranh chấp.

Phía bà N. cho rằng từ trước năm 2000, bà được mẹ là cụ P.T.K cho về ở chung để tiện chăm sóc mẹ già. Bà đã được mẹ cho căn nhà 170 m2 tại thửa đất trên. Bà N. đã nhiều lần sửa chữa, tôn tạo, giữ gìn căn nhà, đã sinh sống ổn định từ đó đến nay và được cấp hộ khẩu thường trú. Vợ chồng con trai bà N. cũng đã xây dựng 1 căn nhà riêng và một số công trình phụ khác trên đất đang tranh chấp. Khi xây dựng, các thành viên trong gia tộc cũng không có ý kiến gì.

Còn bà L.T.B.Th cho rằng được cụ K. đưa về ở trên thửa đất từ năm 1987 để thuận tiện chăm sóc, phụng dưỡng cho đến lúc cụ mất năm 2002. Bà cũng đã xây 1 căn nhà trên thửa đất tranh chấp.

Từ đó, phía bị đơn đề nghị tòa tính công sức quản lý, gìn giữ làm tăng giá trị nhà đất. Cụ thể, bà N. yêu cầu được hưởng 20% giá trị nhà đất tranh chấp, xin được nhận bằng hiện vật tương đương gần 80 m² đất (khoảng 4,7 tỉ đồng). Tương tự, gia đình con trai bà N. yêu cầu được hưởng 30% giá trị, xin nhận bằng hiện vật tương đương hơn 100 m² (khoảng 7 tỉ đồng).

Còn bà Th. ngoài yêu cầu công sức quản lý, gìn giữ làm tăng giá trị đất, còn yêu cầu công lao phụng dưỡng chăm sóc cụ K., tương đương 20% giá trị nhà đất, tương đương gần 80 m² đất (khoảng 4,7 tỉ đồng).

Tại tòa, đại diện Viện KSND đề nghị tòa không chấp nhận phản tố của phía bị đơn về yêu cầu tính công sức gìn giữ, tôn tạo tài sản tranh chấp; đề nghị tòa chỉ buộc nguyên đơn thanh toán giá trị 2 căn nhà và một số công trình khác do vợ chồng con trai bà N. xây dựng.

Ngoài ra, Viện KSND còn đề nghị tòa không chấp nhận yêu cầu của bà H. buộc các bị đơn liên đới bồi thường 90 triệu đồng tiền cọc, và bồi thường do thu nhập bị mất từ việc không cho thuê được.

ĐÒI 20% CÔNG SỨC QUẢN LÝ GÌN GIỮ, TÒA CHO LUÔN 30%

Cuối cùng, TAND khu vực 15 - TP.HCM đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn N.L.H. Tòa buộc bà P.T.N cùng 7 bị đơn phải di dời toàn bộ vật dụng để trả lại cho bà H. gần 400 m² đất. Tuy nhiên, do các bị đơn chưa có chỗ ở mới nên tòa cho phép các bị đơn được quyền lưu cư 12 tháng.

Theo tòa, căn nhà 170 m2 thuộc quyền sở hữu phía bà H. và các con. Tuy nhiên, do bà N. về ở từ năm 1998, nên khi buộc giao trả nhà, tòa tính cho bà 30% giá trị nhà vì công sức quản lý, gìn giữ.

Tòa còn nhận định bị đơn đã ở từ năm 1988 cho đến nay. Vì thế tòa tính công sức gìn giữ cho các bị đơn tương ứng 30% giá trị đất (hơn 5,7 tỉ đồng) mà họ đang quản lý, để buộc nguyên đơn phải thanh toán. Ngoài ra, tòa còn buộc bà H. phải thanh toán cho các bị đơn số tiền đã bỏ ra để sửa chữa, xây dựng nhà.

Bà N. từ chối nhận phần được hưởng mà đồng ý giao lại cho vợ chồng người con trai. Từ đó, tòa buộc bà H. phải thanh toán cho vợ chồng con trai bà N. hơn 5,3 tỉ đồng, thanh toán cho bà Th. hơn 790 triệu đồng, tổng cộng hơn 6 tỉ đồng.

Không đồng tình với bản án sơ thẩm, bà H. đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án lên TAND TP.HCM.

Còn Viện KSND khu vực 15 kháng nghị bản án vì cho rằng tòa đã giải quyết vượt quá yêu cầu phản tố của bị đơn là bà P.T.N. Cụ thể, bà N. chỉ yêu cầu tòa án tính 20% giá trị nhà đất, nhưng tòa lại cho hưởng 30% giá trị là quá cao. Việc này vi phạm điều 5 bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời không phù hợp với chứng cứ và thực tế khách quan của vụ án.

Thực tế, các bị đơn đã hưởng lợi từ việc sử dụng nhà đất của gia đình nguyên đơn trong suốt hàng chục năm qua. Nhà đất tranh chấp không phải là di sản thừa kế của cụ P.T.K để lại, mà là tài sản thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ba chồng bà H. từ năm 1985. Trong quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh công sức đóng góp làm tăng giá trị đất tranh chấp.

Theo Viện kiểm sát, tòa tuyên như trên làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Ngoài ra, Viện kiểm sát còn chỉ ra việc tòa khi cho phép các bị đơn lưu cư 12 tháng, nhưng không xác định kể từ ngày nào, gây khó khăn trong quá trình thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Từ những phân tích trên, Viện KSND khu vực 15 đề nghị TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm.

Các tin khác