Ngồi trước cửa nhà cao hơn mặt hẻm đáng kể sau lần nâng nền 4 năm trước, Th.S Kỷ Quang Vinh, nguyên Chánh văn phòng Công tác Biến đổi khí hậu TP.Cần Thơ, kể cách đây hơn 25 năm, khi mua căn nhà ven sông Khai Luông (TP.Cần Thơ), triều cường hay ngập do mưa là chuyện không đáng bận tâm. Tuy nhiên, chỉ vài năm qua, con nước đã thay đổi chóng mặt.

Th.S Kỷ Quang Vinh cho cho rằng tác hại của ngập lụt chỉ là bề nổi, sụt lún đất mới là thứ đáng sợ hơn
ẢNH: ĐÌNH TUYỂN

Sụt lún và nâng đường khiến những ngôi nhà “biến dạng” thành hố trũng trên lộ Hòa Bình, TP.Cần Thơ
ẢNH: ĐÌNH TUYỂN
"Năm 2011, triều cường 2,15 m, nền nhà tôi vẫn cao hơn nước 10-15 cm nhưng năm 2017, đỉnh triều chỉ 2,13 m nước đã tràn vào nhà tôi lênh láng. Vẫn nền nhà ấy, mực nước triều thấp hơn mà ngập thì chỉ có thể do đất lún", ông Vinh nói và cho biết báo cáo của Cục Đo đạc và Bản đồ đã chỉ ra tại mốc số II cồn Khương (khu vực bên kia sông Khai Luông, đối diện nhà ông Vinh - PV), trong 12 năm (2005-2017), sụt lún tới 51,6 cm. "Dữ liệu này cho thấy tác hại của ngập lụt chỉ là bề nổi, sụt lún đất mới là thứ đáng sợ hơn", Th.S Kỷ Quang Vinh nói.
Một nửa diện tích ĐBSCL nguy cơ ngập
Sụt lún đất không phải là chuyện mới ở ĐBSCL. Cách đây nhiều năm, Dự án Rise and Fall (2014-2019) của các chuyên gia Đại học Utrecht (Hà Lan), đã cảnh báo ĐBSCL phải đối mặt với tốc độ sụt lún trung bình 5 cm/năm, cao gấp nhiều lần tốc độ nước biển dâng (khoảng 3 mm/năm). Đáng lo ngại là "Kịch bản biến đổi khí hậu" năm 2020 của Bộ TN-MT (nay là Bộ NN-MT) cũng chỉ rõ tại các đô thị lớn như Cần Thơ, Cà Mau, Bạc Liêu (cũ) đã hình thành các "phễu lún" với tốc độ rất cao, trung bình từ 20 - 50 cm chỉ trong vòng 10 năm.

Sụt lún và nâng đường khiến hàng trăm ngôi nhà ở Trung tâm thương mại Cái Khế, TP.Cần Thơ bị biến dạng tầng trệt
ẢNH: ĐÌNH TUYỂN
Nguyên nhân sụt lún được xác định là do cộng hưởng giữa yếu tố tự nhiên như nén chặt trầm tích và tác động của con người. Trong đó, thủ phạm chính là việc khai thác nước ngầm ồ ạt với hàng triệu giếng khoan phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp. "Nghịch lý là ĐBSCL ở hạ nguồn sông Mê Kông, nước mênh mông mà không dùng được. Chỉ 30 năm trước, người ta còn lấy nước sông uống. Nay, toàn bộ đồng bằng phải dùng nước ngầm. Đó là hậu quả của sản xuất nông nghiệp chạy theo sản lượng, lạm dụng quá nhiều phân bón, hóa chất khiến nguồn nước mặt ô nhiễm", Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL, nói và ví von: "Chuyện rút nước ngầm giống như chúng ta đang sống trên quả dưa hấu khổng lồ. Nếu cứ thọc ống hút nước bên trong, hút càng nhiều, thì quả dưa càng mau xẹp và không thể phục hồi".

Sụt lún và nâng đường khiến hàng trăm ngôi nhà ở Trung tâm thương mại Cái Khế, TP.Cần Thơ thành vùng trũng
ẢNH: ĐÌNH TUYỂN
Đó cũng là lý do "Kịch bản biến đổi khí hậu" dự báo nếu tốc độ khai thác nước ngầm ở ĐBSCL không giảm, đến năm 2050, mặt đất khu vực này có thể lún thêm 35 - 140 cm. Và trong trường hợp mực nước biển dâng 100 cm, khoảng 47,29% diện tích ĐBSCL sẽ ngập sâu.
"Tác dụng phụ" từ hệ thống đê bao
Trong khi sụt lún là hiểm họa âm thầm thì trên mặt đất, một cuộc "chạy đua" khác cũng góp phần khiến tình trạng ngập càng trầm trọng hơn, đó là việc đắp đê bao khắp miền Tây. Th.S Nguyễn Hữu Thiện phân tích: Bắt đầu từ hơn 30 năm trước, hệ thống đê bao khép kín được đắp thành từng ô ở khắp Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên nhằm mục tiêu canh tác 3 vụ/năm. Không thể phủ nhận tác động tích cực tức thời khi sản lượng lúa của An Giang, Đồng Tháp (cũ) tăng mạnh. Tuy nhiên, cái giá phải trả là Đồng Tháp Mười mất khả năng trữ khoảng 3,5 tỉ m³ nước lũ, Tứ giác Long Xuyên mất 4,5 tỉ m³. Nhịp sinh thái tự nhiên bị đảo lộn, hơn 8 tỉ m³ nước trên không thể tràn lên đồng dự trữ, điều tiết cho mùa khô mà dồn về hạ lưu sông Hậu, sông Tiền, gây ngập vườn cây ăn trái ở vùng giữa đồng bằng.

Cần phải mở cống đê bao đưa nước lũ vào Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười để lan tỏa không gian trữ lũ
ẢNH: QUỐC DŨNG

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho rằng để chống ngập ĐBSCL nói chung cần bám sát tinh thần “thuận thiên” của Nghị quyết 120
ẢNH: QUỐC DŨNG
"Để bảo vệ vườn, người dân phải đắp đê bao khép kín. Xã này đắp đê, xã kia cũng phải đắp đê chống ngập. Vậy là hiệu ứng domino đắp đê bao diễn ra khắp ĐBSCL", ông Thiện nói.
Cùng lúc đó, hệ thống đê và cống ngăn mặn mọc lên rất nhiều để "ngọt hóa" vùng ven biển dẫn đến nước triều từ biển vào cũng mất không gian lan tỏa, bị dồn nén vào các lòng sông chính. Hệ quả là nước lũ từ thượng nguồn đổ xuống và nước triều cường từ biển đẩy vào, cả hai đều bị mất không gian lan tỏa, gặp nhau và dềnh lên cao ở vùng giữa đồng bằng như Cần Thơ, Vĩnh Long. Ở đây, ruộng vườn ngoại ô đã được bao đê khép kín nên không gian ngập còn lại chính là các đô thị và đường giao thông.
Các công trình chống ngập ngàn tỉ đồng ở đô thị, như Dự án 3 của Cần Thơ, chỉ là mắt xích cuối cùng trong "cuộc đua" ngăn nước, nhưng che chắn được vùng lõi Ninh Kiều, thì nước sẽ tràn qua các vùng lân cận như Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn..., gây ngập sâu hơn.
Lối thoát thuận thiên
Để khắc phục tình trạng ngập cho các đô thị ở ĐBSCL, chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho rằng giải pháp gốc rễ nhất là làm chậm sụt lún, giảm và tiến tới cấm khai thác nước ngầm (đặc biệt ở đô thị); khơi thông lại các con rạch nội ô; đồng thời khôi phục chất lượng nước mặt bằng việc thay đổi phương thức canh tác nông nghiệp. "Phải thay đổi nền nông nghiệp theo hướng giảm thâm canh, giảm hóa chất, không chạy theo số lượng. Bắt đầu từ việc giảm lúa 3 vụ ở thượng nguồn như Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, mở cống đê bao và tái tạo không gian hấp thu lũ; đồng thời xóa bỏ tư duy xây cống ngọt hóa", ông Thiện khuyến nghị.
Đây cũng là tinh thần "thuận thiên" mà Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (2017) và Quy hoạch tích hợp ĐBSCL (năm 2022) đã chỉ ra. "Thuận thiên" nghĩa là coi nước mặn, nước lợ và mùa lũ không phải là kẻ thù cần ngăn chặn, mà là nguồn lực, là một phần tất yếu của hệ sinh thái để sắp xếp lại mô hình sản xuất phù hợp hơn.
Ở góc độ quản trị, TS Tô Văn Trường, chuyên gia thủy lợi kỳ cựu, cho rằng cần phải có một "bộ chỉ huy", một cơ quan duy nhất đủ thực quyền điều phối toàn bộ công tác chống ngập, vượt qua ranh giới hành chính, chấm dứt tình trạng mạnh ai nấy làm, triệt tiêu hiệu quả lẫn nhau. Tiếp đến là quy hoạch thông minh với nước. Quy hoạch phải dựa trên cốt nền chuẩn, kết hợp lập bản đồ rủi ro ngập lụt số hóa. Kiểm soát nghiêm ngặt, thậm chí xử lý hình sự các hành vi lấn chiếm, san lấp kênh rạch, ao hồ. Đặc biệt là ưu tiên giải pháp thuận thiên, chuyển dịch mạnh từ cống bê tông và máy bơm sang hạ tầng xanh như phục hồi đất ngập nước, công viên sinh thái, vườn mưa, vật liệu thấm nước; để từ đó đạt lợi ích kép giảm ngập, giảm nhiệt, tăng đa dạng sinh học...
Từ hạ tầng chống ngập yếu kém cho đến "bóng ma" sụt lún hay bất cập trong cuộc đua đắp đê bao, đều chỉ ra rằng: Lối thoát bền vững cho chống ngập ở ĐBSCL và Cần Thơ nói riêng không chỉ nằm ở việc giải quyết những bất cập trong quy hoạch, hạ tầng, quản lý đô thị. Cốt lõi hơn còn phải đảm bảo tinh thần "thuận thiên", giảm sụt lún đất và trả lại không gian lan tỏa cho nước.








