ÁP LỰC CHUYÊN MÔN, BÁO CÁO, GIẤY TỜ
Tại hội thảo "Ứng dụng công nghệ thông tin chuyển đổi số trong quản lý và công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ ở các cơ sở giáo dục mầm non; đề xuất mô hình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ trên nền tảng số và công nghệ số" do Bộ GD-ĐT tổ chức tuần qua tại TP.HCM, PGS-TS Nguyễn Thanh Đề, Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non, Bộ GD-ĐT, kể một câu chuyện từ chính trải nghiệm của mình. Ông cho hay về nhận nhiệm vụ ở Vụ Giáo dục mầm non tháng 3, thì tới tháng 5 phải tổng kết năm học. Như vậy chỉ trong một tháng phải đưa ra được báo cáo tổng kết năm học của giáo dục mầm non. Nhưng những con số, dữ liệu gốc chưa chuẩn hóa, bài bản và thiếu đồng bộ nên việc làm báo cáo tổng kết năm học mất nhiều thời gian, gặp nhiều khó khăn. Ông Đề cũng cho biết đây là tình trạng chung ở cấp cơ sở, cấp phòng, cấp sở GD-ĐT, nhiều nơi mất nhiều tuần chỉ để chuyên viên, giáo viên (GV) tập trung hoàn thiện một báo cáo năm học.

Giáo viên mầm non bận rộn trong các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, báo cáo, học tập nâng cao chuyên môn…
ẢNH: NHẬT THỊNH
Chia sẻ với PV Thanh Niên, cô T.N, GV mầm non một trường ở P.Phước Long (TP.HCM), cho hay cô không chỉ bận rộn từ 6 giờ 45 tới 17 giờ (hoặc có khi hơn) để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ mà còn đủ nhiệm vụ khác như hoàn thiện các báo cáo, bảng biểu đánh giá chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, các khảo sát… Ngoài ra, còn các văn bản, giấy tờ hành chính khác liên quan công tác đoàn thể, các hoạt động văn nghệ, phong trào thi đua…
Một GV lấy tên Duy Nguyễn gửi ý kiến về Báo Thanh Niên cho hay: "Rất nhiều hội thi như môi trường, trang trí lớp, STEAM, rồi thay đổi chương trình... nên một GV mầm non mà chuyển từ lớp này sang lớp kia dạy thì phải thuê xe chở đồ dùng, đồ chơi trẻ em. Điều này ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của GV, chưa nói đến hồ sơ sổ sách, sổ theo dõi sức khỏe hằng ngày của trẻ…".
Bà Nguyễn Thị Ngọc Đoan, Hiệu trưởng Trường mầm non Hoa Mai, P.Bình Thới (TP.HCM), cũng là cụm trưởng cụm chuyên môn số 6 giáo dục mầm non TP.HCM, thừa nhận các cán bộ quản lý mầm non gặp áp lực trong báo cáo, không chỉ về chuyên môn mà còn các công tác kiêm nhiệm. Song việc số hóa đã và đang giúp giảm bớt phần nào áp lực này. Bà Đoan lấy ví dụ sự đồng bộ trên trục dữ liệu chung của ngành giáo dục mầm non TP.HCM giúp thuận tiện hơn trong khâu nắm bắt thông tin, tổng hợp, báo cáo...
SỐ HÓA ĐỂ GIẢM TẢI ÁP LỰC CHO GIÁO VIÊN
Cả nước hiện có hơn 30.000 cơ sở giáo dục mầm non (15.200 trường và trên 17.000 điểm trường, nhóm trẻ độc lập). PGS-TS Nguyễn Thanh Đề khẳng định chuyển đổi số thiết thực nhất là phải được thay đổi từ tư duy chính mỗi GV, cán bộ quản lý.

PGS-TS Nguyễn Thanh Đề, Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non, Bộ GD-ĐT
ẢNH: THÚY HẰNG
Theo ông Đề, số hóa phục vụ chính công việc của đội ngũ GV mầm non, từ ứng dụng AI (trí tuệ nhân tạo) hỗ trợ lập kế hoạch giáo dục, sử dụng mã QR để theo dõi sức khỏe, dinh dưỡng trẻ; phát triển kho học liệu số dùng chung... để giảm đi gánh nặng hành chính, chứ không phải để làm đẹp bảng thành tích. "Số hóa là để bớt đi thời gian làm báo cáo, các thầy cô có thêm thời gian chăm sóc, giáo dục, vui chơi cùng trẻ. GV hạnh phúc thì trẻ mới hạnh phúc", ông Đề nhấn mạnh.
Theo ông Đề, để thực hiện hiệu quả số hóa trong giáo dục mầm non, ngành giáo dục của 34 địa phương sau sáp nhập phải chú ý rà soát, nhập dữ liệu đúng và đủ ngay từ đầu. Để có được điều này thì từ khâu nhập dữ liệu của từng trường phải chuẩn xác, đầy đủ, đây là trách nhiệm của các hiệu trưởng. Ông Đề cho rằng đây là nhiệm vụ đầu tiên các địa phương cần làm rốt ráo trong giai đoạn cuối năm 2025, đầu năm 2026.
Nhiệm vụ thứ hai, PGS-TS Nguyễn Thanh Đề đề nghị cần chuyển các dữ liệu này thành dữ liệu sống, tức là ứng dụng công nghệ số để biến thành các biểu đồ, phân tích, báo cáo số liệu… Đặc biệt, ông Đề nhấn mạnh số hóa giáo dục mầm non song các cơ sở phải nghiên cứu rất sâu, đảm bảo sự an toàn, bảo mật thông tin trẻ em.
KIẾN NGHỊ KIỂM ĐỊNH GIÁO DỤC BẰNG SỐ HÓA
Bà Lương Thị Hồng Điệp, Trưởng phòng Giáo dục mầm non, Sở GD-ĐT TP.HCM, cho biết ngành giáo dục mầm non TP đã bắt đầu ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) từ giai đoạn 2011 - 2014. Sau sáp nhập tỉnh thành, TP có hơn 5.000 cơ sở mầm non, trong đó hơn 3.000 cơ sở độc lập, tư thục. TP tổ chức ngày hội kết nối chuyển đổi số giáo dục mầm non hằng năm để các đơn vị cung ứng chia sẻ kinh nghiệm, cơ sở mầm non lựa chọn giải pháp phù hợp.
"Số hóa giúp giảm cường độ lao động và thời gian làm hồ sơ sổ sách cho đội ngũ GV, cán bộ quản lý, giúp Sở GD-ĐT dễ dàng nắm bắt dữ liệu nhanh chóng và theo dõi hoạt động của cơ sở. Song chúng tôi yêu cầu các đơn vị cung ứng phải bảo mật ở mức độ 3 và kết nối về trục dữ liệu chung của ngành giáo dục mầm non TP.HCM", bà Điệp nói.
Để số hóa thật sự là giải pháp giúp giảm tải áp lực hành chính cho đội ngũ cán bộ, GV mầm non, bà Điệp kiến nghị Bộ GD-ĐT nghiên cứu, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục quốc gia trên nền tảng số để tiết kiệm thời gian, công sức và chỉ cần làm trực tiếp một lần. Đồng thời, cần thiết đồng bộ dữ liệu, khi có trục dữ liệu chung toàn hệ thống mầm non của cả nước với 34 tỉnh thành thì sẽ thuận tiện cho việc quản lý và nắm bắt tình hình chung.
Bà Điệp cũng đề xuất Bộ GD-ĐT đẩy mạnh việc lập kế hoạch giáo dục trên nền tảng số và công khai minh bạch (theo Thông tư 09/2024/TT-BGDĐT) để phụ huynh dễ dàng nắm bắt mọi thông tin hoạt động của trường lớp. Đặc biệt, bà Điệp kiến nghị Bộ GD-ĐT quan tâm hơn đến các cơ sở giáo dục mầm non độc lập tư thục bằng các chính sách, bồi dưỡng cho đội ngũ, để họ có thêm động lực gắn bó với ngành, tuân thủ các quy định chung.
55,8% GV mầm non cho biết tự trang bị phần mềm phục vụ công việc
Khảo sát của Bộ GD-ĐT thực hiện năm 2024 trên 63 tỉnh thành (trước sáp nhập) với sự tham gia của hơn 12.000 cơ sở mầm non về thực trạng ứng dụng CNTT, chuyển đổi số ở các cơ sở mầm non cho thấy nhiều dữ liệu đáng chú ý.
Theo dự thảo báo cáo của Bộ, về nội dung các phần mềm, ứng dụng chuyển đổi số, có 96,4% liên quan thông tin trẻ em; 95,5% liên quan thông tin theo dõi sức khỏe trẻ; 86,3% nội dung về tính toán khẩu phần ăn, hàm lượng dinh dưỡng, thực đơn hằng ngày.
Về cơ sở vật chất, hạ tầng CNTT, các thiết bị được sử dụng nhiều và phổ biến nhất là máy tính có kết nối internet (có 95% cơ sở giáo dục mầm non được trang bị, tương ứng 11.577 cơ sở); thiết bị nghe nhìn (83%, tương ứng 10.123 cơ sở) và thiết bị trình chiếu (76%, tương ứng 9.262 cơ sở). Song chỉ có 30,1% cơ sở có phòng học thông minh (tương ứng 3.667 cơ sở); ứng dụng AI trong hỗ trợ phát triển học liệu đạt 51,3% (tương ứng 6.248 cơ sở).
Đáng chú ý, phần mềm do các cơ sở mua chiếm tỷ lệ cao nhất (82,5%, tương ứng 10.052 đơn vị); phần mềm được tài trợ, hỗ trợ từ bên ngoài là 47% (5.730 đơn vị); 55,8% GV mầm non (tương ứng 822 người) cho biết tự trang bị phần mềm/ứng dụng, phục vụ công việc của mình.














