Khi người sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng BHXH, người lao động gặp rất nhiều thiệt thòi vì không được nhận các quyền lợi BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí…
Chỉ tính riêng địa bàn TPHCM, tính đến hết tháng 10 đã có 19.836 đơn vị chậm đóng BHXH từ 3 tháng trở lên. Trong số này, đơn vị đứng đầu danh sách có số tiền chậm đóng lên đến gần 58,7 tỷ đồng.
Tình trạng này được các cơ quan quản lý ngành lao động TPHCM xác định là một trong những nguyên nhân chính làm xấu quan hệ lao động trên địa bàn thành phố, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Tại buổi giao lưu cùng BHXH TPHCM, nhiều lao động cũng phản ánh tình trạng này. Nhiều người hỏi về cách phân biệt giữa hành vi chậm đóng và trốn đóng BHXH, xác định công ty mình đang làm thuộc trường hợp nào để có biện pháp ứng phó, bảo đảm quyền lợi cho bản thân.

Doanh nghiệp chậm đóng, nợ BHXH ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của người lao động (Ảnh minh họa: Hoài Sơn).
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thảo, Trưởng phòng Chế độ bảo hiểm xã hội BHXH TPHCM, hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại Điều 38 Luật BHXH năm 2024; hành vi trốn đóng thì được quy định tại Điều 39.
Cụ thể, Điều 38 Luật BHXH quy định doanh nghiệp, người sử dụng lao động được xác định là chậm đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp khi thuộc một trong ba trường hợp sau đây:
Thứ nhất là chưa đóng, hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền phải đóng theo hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đã đăng ký kể từ sau ngày đóng chậm nhất theo quy định.
Thứ hai là không đăng ký, hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia BHXH bắt buộc trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định.
Thứ ba là không đăng ký, hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn theo quy định.
Tại Điều 39, Luật BHXH năm 2024 quy định doanh nghiệp, người sử dụng lao động được xác định là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp khi thuộc một trong bảy trường hợp sau đây:
Thứ nhất là người sử dụng lao động không đăng ký, hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia BHXH bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định.
Thứ hai là người sử dụng lao động không đăng ký, hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định.
Thứ ba là đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp hơn quy định.
Thứ tư là đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định.
Thứ năm là không đóng, hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký BHXH bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng BHXH bắt buộc chậm nhất và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc.
Thứ sáu là không đóng, hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc.
Cuối cùng, Chính phủ sẽ quy định các trường hợp khác bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.










