
Ông Phan Đức Trung - Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam. Ảnh: Tiền Phong
Sáng 6/11, báo Tiền Phong phối hợp cùng Uỷ ban chứng khoán Nhà nước tổ chức tọa đàm "Tài sản mã hóa: Từ vùng xám đến thí điểm – Giải pháp đảm bảo minh bạch, an toàn, hiệu quả".
Chia sẻ tại hội thảo, ông Phan Đức Trung - Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam (VBA) cho biết, những vụ việc rửa tiền, gian lận liên quan tài sản mã hóa đang giảm mạnh trên toàn cầu nhờ công nghệ truy vết. Theo thống kê quốc tế, tỷ lệ tội phạm tài chính liên quan blockchain đã giảm từ 0,45% xuống 0,15%, trong khi tổng giá trị giao dịch vẫn tăng mạnh.
Theo ông Trung, con số trên chứng tỏ nếu được quản lý đúng cách, tài sản mã hóa không làm tăng rủi ro cho hệ thống tài chính, mà ngược lại còn giúp minh bạch hóa dòng tiền.
Ông cũng cho biết thực tế, các ngân hàng ngày nay có thể phát hiện và ngăn chặn rửa tiền qua kênh tài sản số dễ hơn nhiều so với giao dịch truyền thống, bởi mọi giao dịch trên blockchain đều để lại dấu vết rõ ràng. Đây là cơ hội lớn cho Việt Nam khi có khoảng 20 triệu người đã sở hữu tài sản mã hóa nhưng phần lớn dòng tiền này vẫn "phiêu du" ở các sàn quốc tế, ngoài tầm giám sát và không đóng góp cho nền kinh tế.
"Nếu chúng ta xây dựng được cơ chế quản lý hiệu quả, tài sản mã hóa có thể trở thành một kênh huy động và dẫn vốn mới cho nền kinh tế số, bên cạnh thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng truyền thống. Điều quan trọng nhất là phải tạo được niềm tin, niềm tin vào luật pháp, vào công nghệ, và vào tính minh bạch của thị trường", ông nhấn mạnh.
Chia sẻ thêm về công nghệ blockchain, ông Trung cho biết đây là nền tảng lưu trữ dữ liệu phân tán, hoạt động 24/7, giao dịch nhỏ nhưng tần suất cao. Khác với hệ thống tập trung của ngân hàng vốn luôn có rủi ro khi sao lưu, blockchain cho phép lưu trữ trên hàng nghìn node phân tán. Điều này đồng nghĩa với chi phí lưu trữ rất lớn nhưng khi kiểm tra, truy xuất dữ liệu lại cực kỳ rẻ. Chính vì vậy, blockchain đắt ở khâu lưu trữ nhưng rẻ nhờ tính minh bạch và khả năng xác thực.
"Ví dụ, mạng Bitcoin hay Ethereum có hàng chục nghìn node, mỗi lần ghi dữ liệu là nhân lên hàng chục nghìn bản. Nhưng đổi lại, an toàn, chống sửa đổi và dễ tra cứu. Đây là ưu điểm nhưng cũng là thách thức nếu triển khai mà không tính toán kỹ.
Đối với công tác truy vết dòng tiền, hiện nay các tổ chức trên thế giới thu phí rất cao, có thể lên đến 50.000 USD/lần, cho nên thường chỉ áp dụng với các vụ việc lớn vì tốn kém. Còn tại Việt Nam, hiện chỉ có khoảng 3 công ty có khả năng phân tích dữ liệu trên blockchain. Chính vì thấy chi phí mỗi lần truy vết rất lớn nên chúng tôi đã quyết định thành lập Chương trình ChainTracer nhằm truy vết các dự án đáng ngờ miễn phí", ông dẫn chứng.

Chủ tịch VBA cho rằng Việt Nam có thể học hỏi mô hình từ Trung Quốc, xây dựng 100 điểm dữ liệu tập trung để lưu tối ưu chi phí, kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh trọng tâm vẫn là xây dựng hạ tầng dữ liệu, lưu trữ, truyền dẫn và pháp lý.
"Nếu chúng ta tiếp tục giữ được tốc độ hiện nay, tránh chồng chéo, phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan như Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, thì chỉ trong 2–3 năm tới, Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành khung pháp lý tương thích với thế giới, đủ sức bảo vệ nhà đầu tư và thúc đẩy đổi mới", ông Trung nhận định.
Trong lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là các sản phẩm tài chính mới như tiền số hay giao dịch phái sinh, ông Trung cho biết cần đặt yếu tố phòng ngừa rủi ro và bảo vệ nhà đầu tư lên hàng đầu.
Từ kinh nghiệm quốc tế, diễn giả dẫn ví dụ ở Singapore – nơi có quy định chặt chẽ về cấp phép giao dịch crypto (license PSA) và yêu cầu khắt khe về năng lực tài chính của nhà đầu tư, ông Trung cho rằng, Việt Nam cũng cần phân loại khách hàng theo năng lực tài chính và mức độ hiểu biết để có cơ chế phù hợp.
Về phía tổ chức tài chính, theo ông, cần hướng dẫn khách hàng phân bổ danh mục hợp lý, chỉ nên dành tỷ trọng nhỏ cho các sản phẩm rủi ro cao, đồng thời tăng tỷ lệ đầu tư vào kênh an toàn hơn như trái phiếu.










