Tại khu vực Đông Nam Bộ - Tây Nguyên
Ghi nhận hôm nay (17/12) cho thấy, thị trường phân bón đi ngang tại thị trường Đông Nam Bộ - Tây Nguyên.
Chi tiết như sau, phân urê Cà Mau được các đại lý bán ra với mức giá 610.000 - 650.000 đồng/bao, giữ nguyên so với hôm trước.
Bên cạnh đó, phân urê thương hiệu Phú Mỹ niêm yết giá bán khoảng 610.000 - 660.000 đồng/bao.
|
Đơn vị tính: đồng/bao |
|||
|
KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ - TÂY NGUYÊN |
|||
|
Tên loại |
Ngày 11/12 |
Ngày 15/12 |
Thay đổi |
|
Phân URÊ |
|||
|
Cà Mau |
610.000 - 650.000 |
610.000 - 650.000 |
- |
|
Phú Mỹ |
610.000 - 660.000 |
610.000 - 660.000 |
- |
|
Phân KALI bột |
|||
|
Cà Mau |
500.000 - 580.000 |
500.000 - 580.000 |
- |
|
Phú Mỹ |
490.000 - 570.000 |
490.000 - 570.000 |
- |
|
Phân NPK 16 - 16 - 8 |
|||
|
Cà Mau |
660.000 - 750.000 |
660.000 - 750.000 |
- |
|
Phú Mỹ |
650.000 - 750.000 |
650.000 - 750.000 |
- |
|
Đầu Trâu |
670.000 - 750.000 |
670.000 - 750.000 |
- |
|
Phân NPK 20 - 20 - 15 TE |
|||
|
Bình Điền |
890.000 - 930.000 |
890.000 - 930.000 |
- |
|
Phân Lân |
|||
|
Lâm Thao |
290.000 - 330.000 |
290.000 - 330.000 |
- |
Số liệu: 2nong.vn
Tại khu vực miền Bắc
Cũng theo ghi nhận, giá phân bón lặng sóng tại khu vực miền Bắc.
Trong đó, mức giá thấp nhất hiện tại là 250.000 - 270.000 đồng/bao áp dụng cho phân Supe lân Lâm Thao.
Đối với phân NPK 16 - 16 - 8, giá bán của loại Việt Nhật và loại Phú Mỹ đang được niêm yết trong khoảng 730.000 - 760.000 đồng/bao.
|
Đơn vị tính: đồng/bao |
|||
|
KHU VỰC MIỀN BẮC |
|||
|
Tên loại |
Ngày 11/12 |
Ngày 15/12 |
Thay đổi |
|
Phân URÊ |
|||
|
Hà Bắc |
560.000 - 590.000 |
560.000 - 590.000 |
- |
|
Phú Mỹ |
540.000 - 580.000 |
540.000 - 580.000 |
- |
|
Phân NPK 16 - 16 - 8 + TE |
|||
|
Việt Nhật |
420.000 - 440.000 |
420.000 - 440.000 |
- |
|
Phân Supe Lân |
|||
|
Lâm Thao |
250.000 - 270.000 |
250.000 - 270.000 |
- |
|
Phân NPK 16 - 16 - 8 |
|||
|
Việt Nhật |
730.000 - 760.000 |
730.000 - 760.000 |
- |
|
Phú Mỹ |
750.000 - 760.000 |
750.000 - 760.000 |
- |
|
Phân KALI bột |
|||
|
Canada |
510.000 - 530.000 |
510.000 - 530.000 |
- |
|
Hà Anh |
510.000 - 540.000 |
510.000 - 540.000 |
- |
Số liệu: 2nong.vn
Nguồn: WiChart.vn
Xuất khẩu than toàn cầu có nguy cơ giảm lần đầu tiên kể từ năm 2020.
Theo Oil Price, xuất khẩu than nhiệt điện toàn cầu dự kiến sẽ giảm lần đầu tiên kể từ năm 2020, chủ yếu do nhu cầu giảm ở thị trường châu Á.
Theo dữ liệu từ Kpler được Gavin Maguire của Reuters trích dẫn , xuất khẩu than nhiệt điện toàn cầu trong năm nay dự kiến đạt khoảng 945 triệu tấn. Con số này thấp hơn 50 triệu tấn so với năm 2024, tương đương mức giảm 5%.
Xu hướng năm 2025 trái ngược với mức tăng 4,5 triệu tấn xuất khẩu than nhiệt điện năm ngoái, và mức tăng hàng năm đáng kể hơn nhiều là 65,2 triệu tấn vào năm 2023. Sự sụt giảm năm 2025 là do nhập khẩu giảm 7% từ khu vực nhập khẩu than hàng đầu thế giới: châu Á.
Châu Á nói chung đã nhập khẩu 89% tổng lượng than nhiệt xuất khẩu trong năm nay, tương đương 841 triệu tấn, ít hơn 60 triệu tấn so với lượng nhập khẩu của châu lục này vào năm 2024. Trung Quốc là nước nhập khẩu hàng đầu với 305 triệu tấn, tiếp theo là Ấn Độ với 157 triệu tấn than nhiệt nhập khẩu trong năm nay. Nhật Bản đứng thứ hai và thứ ba với 100 triệu tấn nhập khẩu, tiếp theo là Hàn Quốc và Việt Nam với lượng nhập khẩu lần lượt là 76 triệu tấn và 45 triệu tấn.
Hàn Quốc và Việt Nam là hai nước nhập khẩu than lớn duy nhất tăng cường mua than trong năm nay, trong khi Trung Quốc và Ấn Độ nhập khẩu ít hơn so với năm 2024. Đối với Trung Quốc, mức giảm là 12%, tương đương khoảng 43 triệu tấn. Đối với Ấn Độ, mức giảm nhập khẩu là 3%, tương đương 4,3 triệu tấn. Tuy nhiên, gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đã tăng cường mua than nhiệt điện nhập khẩu trước khi nhu cầu than mùa đông ở Trung Quốc đạt đỉnh điểm.
Tại Trung Quốc, sản lượng than trong nước năm nay tăng nhẹ 1,5%, nhưng vẫn là mức tăng, bất chấp nỗ lực của chính phủ nhằm chống lại tình trạng dư cung, một phần của chiến dịch siết chặt kiểm soát tình trạng dư thừa công suất trên diện rộng trong các ngành công nghiệp. Trong ngành than, chiến dịch của chính phủ chống lại tình trạng dư thừa công suất được thực hiện thông qua việc kiểm tra các mỏ để đảm bảo chúng không sản xuất vượt quá hạn ngạch do chính phủ quy định. Các cuộc kiểm tra này đã góp phần làm giảm sản lượng than trong tháng 7 và tháng 8. Tuy nhiên, trong nửa đầu năm, sản lượng đã tăng trưởng, kéo theo tổng sản lượng cả năm cũng tăng cao hơn.
Ảnh: Gia Ngọc






